| Cá heo | |
|---|---|
| Thời điểm hóa thạch: | |
Cá heo mũi chai thông thường Tursiops truncatus nhảy sóng ở Banana River gần Trung tâm vũ trụ Kennedy | |
| Phân loại khoa học | |
| Giới (regnum) | Animalia |
| Ngành (phylum) | Chordata |
| Nhánh | Craniata |
| Phân ngành (subphylum) | Vertebrata |
| Phân thứ ngành (infraphylum) | Gnathostomata |
| Liên lớp (superclass) | Tetrapoda |
| Nhánh | Synapsida |
| Nhánh | Reptiliomorpha |
| Nhánh | Amniota |
| Nhánh | Mammaliaformes |
| Lớp (class) | Mammalia |
| Phân lớp (subclass) | Theria |
| Phân thứ lớp (infraclass) | Eutheria (=Placentalia) |
| Liên bộ (superordo) | Laurasiatheria |
| Nhánh | Cetartiodactyla |
| Bộ (ordo) | Cetacea |
| Phân bộ (subordo) | Odontoceti |
| Tính đa dạng | |
| [[Danh sách các loài cá voi|Khoảng 88 loài; xem danh sách các loài cá voi hay dưới đây.]] | |
Cá heo là động vật có vú sống ở đại dương và sông nước có quan hệ mật thiết với cá voi. Có gần 40 loài cá heo thuộc 17 chi sinh sống ở các đại dương, số ít còn lại sinh sống tại một số con sông trên thế giới (sông Dương Tử, sông Amazon, sông Ấn, sông Hằng,...). Kích thước của cá heo có thể từ 1,2 m (4 ft) và 40 kg (90 lb) (Cá heo Maui), cho tới 9,5 m (30 ft) và 10 tấn (9,8 tấn Anh; 11 tấn Mỹ) (Cá heo đen lớn hay Cá voi sát thủ). Cá heo có trên toàn thế giới và thường cư ngụ ở các biển nông của thềm lục địa. Cá heo là loài ăn thịt, chủ yếu là ăn cá và mực. Họ cá voi đại dương Delphinidae là họ lớn nhất trong bộ cá heo và cũng là họ xuất hiện muộn nhất: khoảng 10 triệu năm trước đây, trong thế Trung Tân. Cá heo là một trong số những động vật thông minh và được biết đến nhiều trong văn hóa loài người nhờ hình thức thân thiện và thái độ tinh nghịch và hồ hởi với con người.
Phân loại và phân bố
- Tiểu bộ Odontoceti, cá voi có răng
- Họ Platanistidae
- Cá heo sông Hằng và sông Ấn, Platanista gangetica với 2 phân loài
- Cá heo sông Hằng, Platanista gangetica gangetica
- Cá heo sông Ấn, Platanista gangetica minor
- Cá heo sông Hằng và sông Ấn, Platanista gangetica với 2 phân loài
- Họ Iniidae
- Cá heo sông Amazon, Inia geoffrensis
- Cá heo sông Orinoco (phân họ Orinoco), Inia geoffrensis humboldtiana
- Cá heo sông Araguaia (Araguaian boto), Inia araguaiaensis
- Cá heo sông Bolivia, Inia boliviensis
- Cá heo sông Amazon, Inia geoffrensis
- Họ Lipotidae
- Cá heo sông Dương Tử (hay cá heo sông Trung Quốc), Lipotes vexillifer (có thể đã tuyệt chủng, từ tháng 12 năm 2006)
- Họ Pontoporiidae
- Cá heo La Plata, Pontoporia blainvillei
- Họ Delphinidae, cá heo đại dương
- Chi Delphinus
- Cá heo mõm dài, Delphinus capensis
- Cá heo mõm ngắn, Delphinus delphis
- Chi Tursiops
- Cá heo mũi chai, Tursiops truncatus
- Cá heo mũi chai Ấn Độ Dương, Tursiops aduncus
- Cá heo Burruna, Tursiops australis, một loài mới được phát hiện từ biển xung quanh Melbourne vào tháng 9 năm 2011.[1]
- Chi Lissodelphis
- Cá heo đầu bò phương bắc, Lissodelphis borealis
- Cá heo đầu bò phương nam, Lissodelphis peronii
- Chi Sotalia
- Cá heo Tucuxi, Sotalia fluviatilis
- Costero, Sotalia guianensis
- Chi Sousa
- Cá heo lưng bướu Thái Bình Dương, Sousa chinensis
- cá heo trắng Trung Quốc, Sousa chinensis chinensis
- Cá heo lưng bướu Đại Tây Dương, Sousa teuszii
- Cá heo lưng bướu Thái Bình Dương, Sousa chinensis
- Chi Stenella
- Cá heo đốm Đại Tây Dương, Stenella frontalis
- Cá heo Clymene, Stenella clymene
- Cá heo đốm nhiệt đới, Stenella attenuata
- Cá heo Spinner, Stenella longirostris
- Cá heo sọc, Stenella coeruleoalba
- Chi Steno
- Cá heo răng nhám, Steno bredanensis
- Chi Cephalorhynchus
- Cá heo Chile, Cephalorhynchus eutropia
- Cá heo Commerson, Cephalorhynchus commersonii
- Cá heo Heaviside, Cephalorhynchus heavisidii
- Cá heo Hector, Cephalorhynchus hectori
- Chi Grampus
- Cá voi Risso, Grampus griseus
- Chi Lagenodelphis
- Cá heo Fraser, Lagenodelphis hosei
- Chi Lagenorhynchus
- Cá heo hông trắng Đại Tây Dương, Lagenorhynchus acutus
- Cá heo sẫm màu, Lagenorhynchus obscurus
- Cá heo vằn chữ thập, Lagenorhynchus cruciger
- Cá heo hông trắng Thái Bình Dương, Lagenorhynchus obliquidens
- Cá heo Peale, Lagenorhynchus australis
- Cá heo mõm trắng, Lagenorhynchus albirostris
- Chi Orcaella
- Cá heo mũi hếch Australia, Orcaella heinsohni
- Cá heo Irrawaddy, Orcaella brevirostris
- Chi Peponocephala
- Cá voi đầu dưa, Peponocephala electra
- Chi Orcinus
- Cá voi sát thủ (orca), Orcinus orca
- Chi Feresa
- Cá heo voi lùn, Feresa attenuata
- Chi Pseudorca
- Cá ông chuông, Pseudorca crassidens
- Chi Globicephala
- Cá voi đầu tròn vây dài, Globicephala melas
- Cá voi đầu tròn vây ngắn, Globicephala macrorhynchus
- Chi †"Australodelphis
- †Australodelphis mirus
- Chi Delphinus
- Họ Platanistidae
- Sáu loài trong họ Delphinidae thường được gọi là "cá voi", nhưng về mặt di truyền là cá heo.
- Cá voi đầu dưa, Peponocephala electra
- Cá hổ kình, Orcinus orca
- Cá heo voi lùn, Feresa attenuata
- Cá ông chuông, Pseudorca crassidens
- Cá voi đầu tròn vây dài, Globicephala melas
- Cá voi đầu tròn vây ngắn, Globicephala macrorhynchus
Cá heo đại dương
| Tên | Phân vùng lại | Hình |
|---|---|---|
| Cá heo La Plata | Nam Mỹ (đông) | |
| Cá heo mõm dài | toàn cầu | |
| Cá heo mõm ngắn | toàn cầu | |
| Cá heo mũi chai | toàn cầu | |
| Cá heo mũi chai Ấn Độ Dương | Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương | |
| Cá heo Burrunan | Australia (đông nam) | |
| Cá heo đầu bò phương bắc | Thái Bình Dương (bắc) | |
| Cá heo đầu bò phương nam | Đại dương Nam | |
| Cá heo Guiana | Nam Mỹ (bắc & đông) | |
| Cá heo lưng bướu Thái Bình Dương | Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương | |
| Cá heo lưng bướu Đại Tây Dương | Châu Phi (tây) | |
| Cá heo lưng bướu Australia | Australia (bắc) & New Guinea | |
| Cá heo đốm Đại Tây Dương | Đại Tây Dương | |
| Cá heo Clymene | Đại Tây Dương | |
| Cá heo đốm nhiệt đới | vùng nhiệt đới | |
| Cá heo Spinner | vùng nhiệt đới | |
| Cá heo sọc | toàn cầu | |
| Cá heo răng nhám | toàn cầu | |
| Cá heo Chile | Nam Mỹ (tây nam) | |
| Cá heo Commerson | Nam Mỹ (đông nam) | |
| Cá heo Haviside | Châu Phi (tây nam) | |
| Cá heo Hector | New-Zealand (Đảo Nam) | |
| Cá heo Risso | toàn cầu | |
| Cá heo Fraser | vùng nhiệt đới | |
| Cá heo hông trắng Đại Tây Dương | Đại Tây Dương (bắc), Biên Baltic & Bắc | |
| Cá heo sẫm màu | Nam Bán cầu | |
| Cá heo vằn chữ thập | Đại Dương Nam | |
| Cá heo hông trắng Thái Bình Dương | Thái Bình Dương (bắc) | |
| Cá heo Peale | Nam Mỹ (nam) | |
| Cá heo mõm trắng | Đại Tây Dương (bắc), Biển Baltic và Bắc | |
| Cá heo mũi hếch Australia | Australia (bắc) | |
| Cá heo Irrawaddy | Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương | |
| Cá voi đầu dưa | xứ nhiệt đới | |
| Cá voi sát thủ | toàn cầu | |
| Cá heo voi lùn | xứ nhiệt đới | |
| Cá ông chuông | toàn cầu | |
| Cá voi đầu tròn vây ngắn | toàn cầu | |
| Cá voi đầu tròn vây dài | Đại Tây Dương (bắc) & Đại Dương Namn |
Cá heo sông
| Tên | Phân loại lại | Hình |
|---|---|---|
| Cá heo sông Dương Tử | Sông Dương Tử | |
| Cá heo sông Nam Á | Châu Á (nam) | |
| Cá heo sông Amazon | Lưu vực Amazon | |
| Cá heo sông Araguaia | Amazon (đông) | |
| Cá heo sông Bolivia | Amazon (Bolivia) | |
| Cá heo Tucuxi | Lưu vực Amazon |
Cá heo lai
Năm 1933, ba con cá heo lạ xuất hiện ở bờ biển Ireland. Chúng được xem là các cá thể lai giữa cá heo Risso và cá heo mũi chai (Bottlenose)[2] Việc lai tạo này sau đó được thực hiện lại với các cá heo được nuôi trong bể và cũng tạo ra con lai. Trong bể nuôi, người ta lai giữa cá heo mũi chai và cá heo răng cứng (Rough-toothed) và cũng tạo ra con lai.[3] A Common-Bottlenose hybrid lives at SeaWorld California.[4] Các loài lai khác cũng xuất hiện trong bể nuôi trên toàn cầu hoặc được xác nhận là có trên biển như cá heo Mũi chai với cá heo đốm Đại tây dương.[5] Loài lai nổi tiếng nhất có tên gọi Wolphin lai giữa Cá heo ngụy sát thủ và cá heo Mũi chai. Wolphin có khả năng sinh sản. Hiện giờ có một cặp Wolphin tại Công viên hải sinh ở Hawaii; con đầu tiên được sinh ra năm 1985 do cá bố là Cá heo ngụy sát thủ và mẹ là Mũi chai. Người ta cũng thấy Wolphins tự do trên đại dương.[6]
Tiến hóa và giải phẫu


Tiến hóa
Cá heo, cũng như cá voi, là hậu duệ của động vật có vú trên cạn, và tất có thể thuộc ngành Artiodactyl. Tổ tiên của cá heo hiện đại ngày này có thể đã xuống nước khoảng 50 triệu năm trước ở kỷ Eocene.
Xương cá heo hiện đại có hai xương chậu nhỏ hình cây gậy và được cho hai chân sau đã bị teo đi. Tháng 10 năm 2006, một cá heo Mũi chai lạ bị bắt ở Nhật Bản; con cá này có 2 vây nhỏ ở hai bên khe bộ phận sinh dục và được các nhà khoa học xác định là chân sau phát triển hình thành.[7]
Giải phẫu học
Cá heo có thân hình thoi suôn tối ưu cho bơi với tốc độ cao. Vây đuôi được sử dụng để tạo sức đẩy còn vây mang và toàn bộ đuôi để điều chỉnh hướng bơi. Vây lưng đối với các loài có vây lưng dùng để ổn định cơ thể khi bơi.
Dù mỗi loài có khác nhau, đặc điểm chung ở hầu hết cá heo là các sắc màu xám với bụng có màu nhạt hơn. Trên da cá heo thường có các đốm với màu tương phản và sắc độ khác..
Đầu cá heo có bộ phận phát sóng rada sinh học ở trán. Nhiều loài có hàm phát triển dài tạo thành một cái mỏ rõ rệt. Một số loài như loài Mũi chai có miệng hình cánh cung như một nụ cười cố định. Một vài loài khác có thể có tới 250 răng. Cá heo thở bằng một lỗ ở trên đầu. Não cá heo phát triển to và phức tạp và có cấu trúc khác hẳn hầu hết động vật có vú trên cạn.
Khác hầu hết động vật có vú khác, cá heo không có lông mao. Trừ một chút lông ở mỏ lúc sinh ra và mất đi nhanh chóng sau đó.[8] Một ngoại lệ duy nhất là loài cá heo sông Boto, trên mỏ chúng mọc những sợi lông nhỏ rất dai dẳng.[9]
Cơ quan sinh sản của cá heo được đặt ở phần dưới của cơ thể. Cá heo đực có 2 khe, một khe chứa dương vật và một khe chứa hậu môn. Cá heo cái chỉ có một khe sinh dục chứa cả âm vật và hậu môn. Khe chứa vú được đặt ở hai bên khe chứa bộ phận sinh dục.
Nghiên cứu mới đây tại Quỹ động vật có vú hải dương quốc gia Mĩ cho thấy cá heo là loài động vật duy nhất khác loài người mà cũng có biểu hiện tự nhiên của Bệnh béo phì loại 2 và đây là cơ sở để nghiên cứu kỹ hơn bệnh này cũng như phương hướng điều trị cho cả người và cá heo.[10]
Giác quan
Hầu hết cá heo đều có nhãn lực tinh tường cả trong môi và ngoài môi trường nước và có thể cảm nhận các tần số cao gấp 10 lần tần số người có thể nghe được.[11] Mặc dù cá heo có lỗ tai nhỏ ở hai bên đầu, người ta cho rằng trong môi trường nước, cá nghe bằng hàm dưới và dẫn âm thanh tới tai giữa qua những khe hở chứa mở trong xương hàm. Nghe cũng được dùng để phát sóng rada sinh học, một khả năng tất cả các loài cá heo đều có. Người ta cho rằng răng cá heo được dùng như cơ quan thụ cảm, chúng nhận các âm thanh phát tới và chỉ chính xác vị trí của đối tượng.[12] Xúc giác của cá heo cũng rất phát triển, với đầu dây thần kinh phân bổ dày đặc trên da, nhất là ở mũi, vây ngực và vùng sinh dục. Tuy nhiên cá heo không có các tế bào thần kinh thụ cảm mùi và vì vậy chúng được tin là không có khứu giác.[13] Cá heo cũng có vị giác và thể hiện thích một số thức ăn cá nhất định. Hầu hết thời gian của cá heo là dưới mặt nước, cảm nhận vị của nước có thể giúp cá heo ngửi theo cách là vị nước có thể cho cá biết sự hiện diện của các vật thể ngoài miệng mình.
Dù cá heo không có lông, chúng vẫn có nang lông giúp thực hiện một vài chức năng xúc giác.[14] Người ta tin rằng, các sợi lông nhỏ trên mỏ của loài cá heo sông Boto hoạt động như một hệ thống xúc giác để bù đắp cho thị giác kém của loài này.[15]
Trí thông minh

Cá heo được biết đến là loài có khả năng dạy dỗ, học hỏi, hợp tác, lập mưu và cả đau buồn.[16] Điều thú vị là trong vỏ não mới của nhiều loài cá heo có chứa các tế bào thần kinh hình thoi. Trước năm 2007, người ta vẫn cho rằng loại tế bào này chỉ tồn tại ở các loài linh trưởng thuộc tông Người (hominids).[17] Ở con người, những tế bào này có vai trò quan trọng trong hành vi xã hội, cảm xúc, khả năng phán đoán và năng lực thấu cảm (tức là hiểu được suy nghĩ của người khác).[18] Các tế bào thần kinh hình thoi của cá heo cũng được tìm thấy ở những vùng não tương tự như ở người, điều này cho thấy chúng có thể thực hiện chức năng tương tự.[19]
Trước đây, kích thước bộ não từng được coi là một chỉ số chính để đánh giá trí thông minh của động vật. Vì phần lớn bộ não được dùng để duy trì các chức năng cơ thể, nên tỷ lệ não trên khối lượng cơ thể càng lớn thì phần não dư ra để dùng cho các nhiệm vụ phức tạp càng nhiều. Các phân tích khoa học cho thấy có một mối tương quan giữa kích thước não và kích thước cơ thể. Việc so sánh kích thước não thực tế của một con vật với kích thước não "dự kiến" dựa trên khối lượng cơ thể của nó sẽ cho ra một "chỉ số não hóa". Chỉ số này có thể được dùng như một thước đo khác về trí thông minh. Đáng chú ý, cá voi sát thủ (Orca) có khối lượng não lớn thứ hai trong thế giới động vật, chỉ sau cá nhà táng.[20] Tỷ lệ giữa não và khối lượng cơ thể ở một số loài cá heo cũng đứng thứ hai chỉ sau con người.[21]
Sự tự nhận thức được xem là một dấu hiệu của tư duy trừu tượng, phát triển ở bậc cao. Mặc dù chưa được định nghĩa chính xác về mặt khoa học, sự tự nhận thức được tin là tiền đề cho các quá trình phức tạp hơn như "siêu nhận thức" (tức là suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình), một khả năng điển hình của con người. Nghiên cứu trong lĩnh vực này đã chỉ ra rằng các loài thuộc bộ Cá voi (bao gồm cá heo) và một số loài khác có khả năng tự nhận thức.[22] Phép thử phổ biến nhất cho khả năng này là "phép thử với gương" (mirror test). Người ta sẽ đặt một tấm gương trước con vật rồi đánh một dấu tạm thời lên cơ thể nó. Nếu con vật tiến đến gần gương để quan sát vết dấu đó trên chính mình, thì đây là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy nó có sự tự nhận thức.[23]
Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng tình với những phát hiện này. Một số người cho rằng kết quả của các bài kiểm tra này còn tùy thuộc vào sự diễn giải của con người và có thể bị ảnh hưởng bởi "hiệu ứng Clever Hans" (đây là hiện tượng khi một con vật có vẻ thông minh nhưng thực chất chỉ đang phản ứng lại những gợi ý vô tình từ người huấn luyện). Phép thử này cũng kém thuyết phục hơn khi áp dụng cho các loài thuộc bộ Cá voi so với khi dùng cho các loài linh trưởng. Lý do là vì linh trưởng có thể dùng tay chạm vào vết dấu hoặc tấm gương, trong khi cá heo thì không thể. Điều này khiến cho hành vi được cho là tự nhận biết của chúng trở nên không chắc chắn.[23]
Những người hoài nghi lập luận rằng các hành vi được cho là thể hiện sự tự nhận thức lại rất giống với các hành vi xã hội thông thường của chúng. Vì vậy, có thể các nhà nghiên cứu đã hiểu sai, nhầm lẫn giữa sự tự nhận thức với phản ứng xã giao khi chúng nghĩ rằng đang gặp một cá thể khác. Để phản biện, các nhà nghiên cứu cho rằng những hành vi được quan sát thấy chính là bằng chứng của sự tự nhận thức, vì chúng rất khác so với những phản ứng bình thường khi chúng gặp một con vật khác. Trong khi loài vượn có thể dễ dàng dùng ngón tay chạm vào vết dấu trên người mình, thì cá heo chỉ có thể xoay mình và uốn lượn để quan sát vết dấu, một hành vi thể hiện sự tự nhận thức một cách kém rõ ràng hơn.
Vào năm 1995, hai nhà khoa học Marten và Psarakos đã sử dụng tivi để kiểm tra sự tự nhận thức của cá heo.[24] Họ cho chúng xem video trực tiếp của chính mình, video của một con cá heo khác, và những đoạn phim đã được ghi lại từ trước. Họ kết luận rằng bằng chứng thu được cho thấy đó là sự tự nhận thức chứ không phải hành vi xã hội. Mặc dù nghiên cứu đặc biệt này chưa được thực hiện lại kể từ đó, nhưng sau này cá heo đã vượt qua được phép thử với gương trong các nghiên cứu khác. Dù vậy, một số nhà nghiên cứu vẫn cho rằng các bằng chứng về sự tự nhận thức ở loài này vẫn chưa thực sự được chứng minh một cách thuyết phục.[25]
Hành vi
Đời sống xã hội


Cá heo là loài động vật có tính xã hội rất cao, thường sống thành từng đàn lên tới cả chục con, mặc dù quy mô và cấu trúc đàn rất khác nhau tùy theo loài và địa điểm. Ở những nơi có nguồn thức ăn dồi dào, các đàn có thể tạm thời hợp nhất lại, tạo thành một "siêu đàn"; những nhóm như vậy có thể lên tới hơn 1.000 con cá heo. Tư cách thành viên trong đàn không hề cứng nhắc; việc thay đổi (từ đàn này sang đàn khác) diễn ra khá phổ biến. Chúng thiết lập các mối liên kết xã hội bền chặt, và sẽ ở lại với những thành viên bị thương hoặc bị bệnh, thậm chí giúp những thành viên này thở bằng cách đưa chúng lên mặt nước khi cần.[26] Lòng vị tha này dường như không chỉ giới hạn trong đồng loại của chúng. Người ta từng quan sát thấy một con cá heo tên Moko ở New Zealand đã dẫn đường cho một con cá nhà táng nhỏ cái cùng đứa con của nó thoát khỏi vùng nước nông, nơi chúng đã bị mắc cạn nhiều lần.[27] Người ta cũng đã thấy chúng bảo vệ những người đang bơi khỏi bầy cá mập bằng cách bơi vòng tròn xung quanh họ hoặc lao thẳng vào lũ cá mập để xua chúng đi.[28][29]
Cá heo giao tiếp bằng nhiều loại âm thanh như tiếng lách cách, tiếng huýt sáo và các âm thanh khác. Chúng cũng sử dụng giao tiếp phi ngôn ngữ thông qua việc đụng chạm và dùng các tư thế cơ thể.[30] Cá heo cũng thể hiện "văn hóa", một điều mà từ lâu người ta tin rằng chỉ có ở con người (và có thể là các loài linh trưởng khác). Vào tháng 5 năm 2005, một khám phá ở Úc đã phát hiện ra loài cá heo mũi chai Ấn Độ - Thái Bình Dương dạy con chúng cách sử dụng công cụ. Chúng dùng bọt biển che mõm để tự bảo vệ trong khi tìm kiếm thức ăn. Kiến thức này chủ yếu được các con mẹ truyền lại cho con gái, không giống như các loài linh trưởng, nơi kiến thức thường được truyền cho cả hai giới. Việc sử dụng bọt biển để bảo vệ miệng là một hành vi học được.[31] Một hành vi học được khác đã được phát hiện ở loài cá heo sông ở Brazil, nơi một số con đực sử dụng rong rêu và cành cây như một phần của một màn trình diễn để thu hút bạn tình.[32]
Các hình thức chăm sóc đồng loại và thậm chí là chăm sóc các thành viên của loài khác đã được ghi nhận ở nhiều loài cá heo.[33] Ví dụ như chúng cố gắng cứu những con vật yếu hơn, hay trường hợp những con cá voi hoa tiêu cái ôm giữ những đứa con đã chết của chúng trong một thời gian dài.
Cá heo mũi chai đực đã được ghi nhận có hành vi giết chính con non của mình. Ngoài ra, cá heo cũng được biết đến với việc giết cá heo chuột vì những lý do chưa được hiểu đầy đủ. Điều này đặc biệt khó hiểu vì cá heo chuột thường không có cùng chế độ ăn với cá heo và do đó không phải là đối thủ cạnh tranh nguồn thức ăn.[34][35] Tổ chức Cornwall Wildlife Trust ghi nhận có khoảng một cái chết như vậy mỗi năm. Các lời giải thích khả dĩ cho hành vi này bao gồm việc chúng có ý định giết con non nhưng lại nhầm mục tiêu, sự hung hăng về mặt tình dục bị nhắm sai đối tượng, hoặc đơn giản đây chỉ là một hành vi vui chơi đi quá giới hạn.[36]
Sinh sản và đời sống tình dục
Việc giao phối của cá heo diễn ra theo tư thế bụng đối bụng. Mặc dù nhiều loài có màn dạo đầu kéo dài, hành động chính thường diễn ra ngắn gọn, nhưng có thể được lặp lại nhiều lần trong một khoảng thời gian ngắn.[37] Thời gian mang thai thay đổi tùy theo loài; đối với loài cá heo tucuxi nhỏ, thời gian này là khoảng 11 đến 12 tháng,[38] trong khi với cá voi sát thủ (orca), thời gian mang thai là khoảng 17 tháng.[39] Cá heo thường chỉ sinh một con non duy nhất trong mỗi lứa. Một điểm đặc biệt là hầu hết chúng được sinh ra theo kiểu đuôi ra trước, không giống như đa số các loài động vật có vú khác.[40] Chúng thường hoạt động tình dục từ khi còn nhỏ, ngay cả trước khi đạt đến độ tuổi trưởng thành về mặt sinh dục. Độ tuổi trưởng thành này cũng khác nhau tùy theo loài và giới tính.[41]
Cá heo cũng được biết là có các hành vi tình dục không nhằm mục đích sinh sản, bao gồm cả việc thủ dâm,[42] dùng mõm hoặc vây để kích thích vùng sinh dục của cá thể khác, và cả quan hệ đồng giới.[37][43][44] Nhiều loài cá heo khác nhau đã được ghi nhận có hành vi tình dục, bao gồm cả việc giao phối với cá heo thuộc loài khác. Thỉnh thoảng, chúng còn thể hiện hành vi tình dục đối với các loài động vật khác, kể cả con người.[45][46] Các cuộc giao phối có thể mang tính bạo lực, với việc cá heo mũi chai đực đôi khi tỏ ra hung hăng với cả con cái và những con đực khác.[47] Các con đực cũng có thể hợp tác với nhau để cố gắng "lùa" những con cái đang trong kỳ động dục, giữ chúng ở bên cạnh bằng cả sự hung hăng về thể chất lẫn dọa dẫm, nhằm tăng cơ hội sinh sản thành công cho chúng.[48]
Giấc ngủ

Nhìn chung, cá heo ngủ theo một cách rất đặc biệt: chúng chỉ cho một nửa bán cầu não chìm vào giấc ngủ sóng chậm tại một thời điểm. Bằng cách này, chúng vẫn duy trì đủ ý thức để thở và cảnh giác với những kẻ săn mồi hoặc các mối đe dọa khác. Tuy nhiên, ở các giai đoạn đầu của giấc ngủ, cả hai bán cầu não có thể ngủ cùng một lúc.[49][50][51]
Trong môi trường nuôi nhốt, cá heo dường như có thể bước vào trạng thái ngủ hoàn toàn, khi cả hai mắt đều nhắm và chúng không phản ứng với các kích thích nhẹ từ bên ngoài. Trong trường hợp này, việc hô hấp diễn ra một cách tự động; một phản xạ vẫy đuôi sẽ giữ cho lỗ phun khí của chúng ở trên mặt nước nếu cần. Ngay cả những con cá heo bị gây mê ban đầu cũng cho thấy phản xạ vẫy đuôi này.[52]
Mặc dù trạng thái ngủ say tương tự đã được quan sát thấy ở cá nhà táng hoang dã, người ta vẫn không biết liệu cá heo trong tự nhiên có đạt đến trạng thái này hay không.[53] Riêng cá heo sông Ấn có một phương pháp ngủ khác biệt so với các loài cá heo khác. Sống trong vùng nước có dòng chảy mạnh và các mảnh vụn trôi nổi nguy hiểm, chúng phải bơi liên tục để tránh bị thương. Do đó, loài này ngủ theo những giấc cực ngắn, chỉ kéo dài từ 4 đến 60 giây mỗi lần.[54]
Kiếm ăn
Có rất nhiều phương pháp kiếm ăn khác nhau giữa các loài và ngay cả trong cùng một loài, một số phương pháp dường như chỉ tồn tại ở một quần thể duy nhất. Thức ăn chính của chúng là cá và mực, nhưng loài cá voi sát thủ giả và cá voi sát thủ (orca) còn ăn cả các loài động vật có vú khác ở biển. Thỉnh thoảng, cá voi sát thủ còn săn cả những loài cá voi lớn hơn chúng.[55]
Số lượng răng cũng khác nhau rất nhiều giữa các loài cá heo. Cá voi sát thủ thường có 40-56 chiếc răng, trong khi loài cá heo mũi chai phổ biến có từ 72 đến 116 chiếc răng hình nón, và người anh em nhỏ hơn của nó là cá heo thông thường thì có tới 188-268 chiếc răng. Đáng chú ý là số lượng răng của mỗi cá thể cũng có thể khác nhau rất nhiều trong cùng một loài.
Một phương pháp kiếm ăn phổ biến là lùa con mồi, trong đó cả đàn sẽ dồn một đàn cá vào một khu vực nhỏ, tạo thành một "bóng mồi". Sau đó, từng thành viên sẽ lần lượt lao qua quả bóng này để ăn những con cá đã bị choáng váng.[55] Dồn con mồi là một phương pháp khác, khi cá heo đuổi cá vào vùng nước nông để bắt chúng dễ dàng hơn. Người ta cũng biết đến việc cá voi sát thủ và cá heo mũi chai dồn con mồi lên bờ biển để ăn.[55] Một số loài còn dùng đuôi để đập vào những con cá, làm chúng choáng váng và đôi khi văng ra khỏi mặt nước.[56][57]
Các báo cáo về việc con người và cá heo hợp tác đánh bắt cá đã có từ thời nhà văn và nhà triết học tự nhiên La Mã cổ đại Pliny the Elder.[58] Hiện nay, một mối quan hệ hợp tác hiện đại giữa người và cá heo vẫn đang diễn ra ở Laguna, Santa Catarina, Brazil. Tại đây, cá heo lùa cá về phía những người dân chài đang đợi dọc bờ biển và ra hiệu cho họ quăng lưới. Phần thưởng của những con cá heo này là những con cá thoát khỏi lưới.[59][60]
Tại Vịnh Cá Mập, Úc, cá heo bắt cá bằng cách bẫy chúng trong những chiếc vỏ ốc xà cừ khổng lồ. Trong kỹ thuật "bắt cá bằng vỏ ốc" này, một con cá heo sẽ mang chiếc vỏ ốc lên mặt nước và lắc mạnh để những con cá đang trú ẩn bên trong rơi vào miệng nó.[61] Từ năm 2007 đến 2018, trong 5.278 lần chạm trán với cá heo, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy 19 con cá heo thực hiện hành vi này 42 lần. Đáng chú ý là hành vi này chủ yếu lan truyền trong cùng một thế hệ (giữa các cá thể ngang hàng với nhau), thay vì được mẹ truyền lại cho con.
Giao tiếp bằng âm thanh

Cá heo có khả năng tạo ra một loạt âm thanh đa dạng bằng cách sử dụng các túi khí trong mũi, nằm ngay dưới lỗ phun khí. Có thể xác định sơ bộ ba loại âm thanh: tiếng huýt sáo có tần số thay đổi, các chuỗi âm thanh theo nhịp và tiếng lách cách. Cá heo giao tiếp bằng những âm thanh giống tiếng huýt sáo được tạo ra bởi sự rung động của mô liên kết, tương tự như cách hoạt động của dây thanh quản ở người.[62] Chúng cũng giao tiếp thông qua các chuỗi âm thanh theo nhịp, mặc dù bản chất và mức độ của khả năng này vẫn chưa được hiểu rõ. Riêng tiếng lách cách thì có định hướng và dùng để định vị bằng tiếng vang (echolocation), thường xuất hiện trong một chuỗi ngắn gọi là "chuỗi lách cách". Tần suất tiếng lách cách tăng lên khi chúng đến gần một vật thể mà chúng quan tâm. Tiếng lách cách định vị của cá heo là một trong những âm thanh lớn nhất do các loài động vật biển tạo ra.[63]
Người ta đã phát hiện ra rằng cá heo mũi chai có "tiếng huýt sáo đặc trưng" (signature whistles), một tiếng huýt sáo độc nhất cho từng cá thể. Những tiếng huýt này được cá heo sử dụng để giao tiếp với nhau bằng cách xác định danh tính của từng con. Có thể xem đây là thứ tương đương với "tên riêng" ở con người.[64] Những tiếng huýt sáo đặc trưng này được phát triển trong năm đầu đời của một con cá heo và nó sẽ duy trì âm thanh đó suốt cả cuộc đời.[65] Để có được tiếng huýt sáo riêng, cá heo phải trải qua quá trình "học tạo âm thanh". Quá trình này bao gồm việc tương tác với những con cá heo khác, từ đó điều chỉnh cấu trúc âm thanh của một tiếng huýt sẵn có. Trải nghiệm thính giác ảnh hưởng đến sự phát triển tiếng huýt của mỗi con cá heo. Chúng có thể gọi nhau bằng cách bắt chước tiếng huýt sáo của con mà chúng muốn gọi. Tiếng huýt sáo đặc trưng của một con cá heo mũi chai đực có xu hướng giống với tiếng huýt của mẹ nó, trong khi của con cái thì có xu hướng khác biệt hơn.[66] Cá heo mũi chai có một trí nhớ đáng kinh ngạc đối với những tiếng huýt sáo này, vì chúng có thể nhận ra tiếng huýt của một cá thể mà chúng đã không gặp trong hơn hai mươi năm.[67] Nghiên cứu về việc sử dụng tiếng huýt sáo đặc trưng ở các loài cá heo khác còn tương đối hạn chế. Các nghiên cứu đã được thực hiện cho đến nay đã mang lại những kết quả khác nhau và không có kết luận rõ ràng.[68][69][70][71]
Bởi vì cá heo thường sống theo bầy đàn nên việc giao tiếp là rất cần thiết. Tuy nhiên, chúng cũng gặp phải một vấn đề gọi là sự che lấp tín hiệu (signal masking). Đây là hiện tượng khi những âm thanh tương tự khác (từ những con cùng loài trong đàn) xen vào làm nhiễu hoặc che lấp mất âm thanh gốc.[72] Trong các đàn lớn hơn, tiếng huýt sáo của từng cá thể sẽ trở nên kém nổi bật hơn và khó nghe hơn. Cá heo có xu hướng di chuyển theo đàn, và một đàn có thể gồm từ vài con cho đến rất nhiều con. Mặc dù di chuyển cùng nhau, chúng không nhất thiết phải bơi ngay sát cạnh nhau mà thường tản ra trong cùng một khu vực chung. Để tránh bị lạc mất thành viên trong đàn, chúng sẽ huýt sáo với tần suất cao hơn. Chúng làm vậy chính là vì các thành viên bị tản ra, và việc "gọi nhau" liên tục giúp cả đàn có thể tiếp tục di chuyển cùng nhau mà không ai bị bỏ lại.
Nhảy và vui chơi

Cá heo thường xuyên nhảy lên khỏi mặt nước vì nhiều lý do khác nhau. Khi di chuyển, việc nhảy có thể tiết kiệm năng lượng cho cá heo vì có ít ma sát hơn khi ở trong không khí.[73] Kiểu di chuyển này được gọi là "porpoising" (nhảy rướn). Các lý do khác bao gồm để định hướng, thể hiện xã hội, chiến đấu, giao tiếp phi ngôn ngữ, giải trí và cố gắng loại bỏ ký sinh trùng bám trên cơ thể.[74][75]
Cá heo thể hiện nhiều kiểu hành vi vui đùa khác nhau, thường là với các đồ vật, những chiếc vòng bong bóng tự tạo, những con cá heo khác hoặc các loài động vật khác.[76][77][78] Khi chơi với đồ vật hoặc động vật nhỏ, hành vi phổ biến của chúng bao gồm việc dùng các bộ phận cơ thể để mang theo đồ vật/con vật, chuyền nó cho các thành viên khác trong nhóm hoặc giật lấy từ một thành viên khác, hoặc ném nó lên khỏi mặt nước.[77]
Người ta cũng quan sát thấy cá heo trêu chọc các loài động vật khác theo nhiều cách, ví dụ như kéo những con chim xuống dưới nước mà không hề có ý định ăn thịt chúng.[77] Hành vi vui chơi có sự tham gia tích cực từ các loài động vật khác cũng đã được quan sát. Tương tác vui đùa giữa cá heo với con người là những ví dụ rõ ràng nhất, cùng đó là với cá voi lưng gù và chó .[79][80]
Ngoài khơi bờ biển Tây Úc, người ta đã quan sát thấy những con cá heo con đuổi theo, bắt và nhai những con cá nóc.[81] Một số báo cáo cho rằng lũ cá heo đang bị "phê" hoặc say bởi chất độc tetrodotoxin có trong da của loài cá này.[82] Tuy nhiên, các báo cáo khác lại cho rằng hành vi này chỉ đơn giản là sự tò mò và khám phá môi trường một cách bình thường mà cá heo vẫn thường làm.[83]
Đi bằng đuôi
Mặc dù hành vi này cực kỳ bất thường ở cá heo hoang dã, một số cá heo mũi chai Ấn Độ - Thái Bình Dương ở Sông Port, phía bắc Adelaide, Nam Úc, đã được nhìn thấy thể hiện hành vi "đi bằng đuôi".[84][85] Hoạt động này bắt chước tư thế đứng, sử dụng đuôi để "lướt" giật lùi trên mặt nước.[86] Để thực hiện động tác này, con cá heo sẽ "đẩy phần lớn cơ thể theo phương thẳng đứng lên khỏi mặt nước và duy trì tư thế này bằng cách đập đuôi cực mạnh".[85]
Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1988 khi một con cá heo cái tên là Billie được giải cứu sau khi bị mắc kẹt trong một bến du thuyền ô nhiễm và đã trải qua hai tuần hồi phục cùng những con cá heo bị nuôi nhốt.[87] Trước đó, vào những năm 1980, người ta đã từng thấy Billie bơi lội và nô đùa cùng những con ngựa đua đang tập luyện ở Sông Port. Sau khi bị mắc kẹt ở một cửa sông đầy lau sậy, nó đã được cứu và đưa đến một công viên hải dương để hồi phục cùng một số con cá heo nuôi nhốt. Chính tại đây, nó đã quan sát thấy những con cá heo này biểu diễn trò đi bằng đuôi. Sau khi được trả về Sông Port, nó tiếp tục thực hiện trò này, và một con cá heo khác tên là Wave đã bắt chước theo. Wave, một "tay đi bằng đuôi" rất tích cực, đã truyền lại kỹ năng này cho các con gái của mình là Ripple và Tallula.[84]
Sau cái chết sớm của Billie, Wave bắt đầu đi bằng đuôi thường xuyên hơn nhiều, và những con cá heo khác trong nhóm cũng được quan sát thấy thực hiện hành vi này. Vào năm 2011, có tới 12 con cá heo được quan sát thấy đang đi bằng đuôi, nhưng dường như chỉ có những con cái học được kỹ năng này.[88] Vào tháng 10 năm 2021, người ta lại quan sát thấy một con cá heo đi bằng đuôi trong nhiều giờ liền.[87]
Các nhà khoa học nhận thấy sự lan truyền của hành vi này, qua tới hai thế hệ, là rất đáng ngạc nhiên, bởi vì nó không mang lại lợi ích rõ ràng nào và lại rất tốn năng lượng.
Một nghiên cứu năm 2018 của Mike Rossley và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng:[84]
Học hỏi xã hội là cơ chế khả dĩ nhất cho sự xuất hiện và lan truyền của hành vi bất thường này, một hành vi không có chức năng thích nghi (lợi ích sinh tồn) nào được biết đến. Những quan sát này chứng tỏ sức mạnh tiềm tàng của khả năng bắt chước một cách tự phát ở cá heo mũi chai, và giúp giải thích nguồn gốc cũng như sự lan truyền của các kỹ năng kiếm ăn chuyên biệt được quan sát thấy ở nhiều quần thể thuộc loài này.
Các mối đe dọa

Trong môi trường biển, cá heo có rất ít kẻ thù. Một số loài hoặc một số quần thể cụ thể thậm chí không có kẻ thù nào, khiến chúng trở thành động vật săn mồi đỉnh bảng. Đối với hầu hết các loài cá heo nhỏ hơn, chỉ một vài loài cá mập lớn như cá mập bò, cá mập l dusky, cá mập hổ và cá mập trắng lớn mới là mối nguy tiềm tàng, đặc biệt là đối với những con non.[89] Một số loài cá heo lớn hơn, đặc biệt là cá voi sát thủ, cũng có thể săn những con cá heo nhỏ hơn, nhưng điều này dường như rất hiếm.[90]
Cá heo cũng phải đối mặt với rất nhiều loại bệnh tật và ký sinh trùng.[91][92] Đáng chú ý, virus Morbillivirus ở bộ Cá voi đã được biết là nguyên nhân gây ra các trận dịch bệnh trong khu vực, thường làm hàng trăm cá thể thuộc nhiều loài khác nhau bị chết.[93][94] Các triệu chứng của bệnh thường là sự kết hợp nghiêm trọng của viêm phổi, viêm não và tổn thương hệ miễn dịch, làm suy giảm nghiêm trọng khả năng bơi và tự nổi trên mặt nước của chúng.[95][96] Một nghiên cứu tại Quỹ Động vật có vú Biển Quốc gia Hoa Kỳ đã tiết lộ rằng cá heo, giống như con người, cũng mắc một dạng bệnh tiểu đường tuýp 2 tự nhiên.[97] Phát hiện này có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về căn bệnh và tìm ra phương pháp điều trị mới cho cả người và cá heo.
Cá heo có thể chịu đựng và hồi phục sau những vết thương cực kỳ nghiêm trọng như vết cắn của cá mập, mặc dù các cơ chế chính xác giúp chúng làm được điều này vẫn chưa được biết rõ. Quá trình chữa lành diễn ra nhanh chóng và ngay cả những vết thương rất sâu cũng không khiến cá heo bị chảy máu đến chết. Hơn nữa, ngay cả những vết thương hở lớn cũng lành lại theo cách mà hình dạng cơ thể của con vật được phục hồi, và việc nhiễm trùng ở những vết thương lớn như vậy dường như rất hiếm.[98]
Mối đe dọa từ con người

Một số loài cá heo đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, đặc biệt là các loài cá heo sông như cá heo sông Amazon, cá heo sông Hằng và cá heo sông Dương Tử, vốn đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp. Đáng buồn thay, một cuộc khảo sát năm 2006 đã không tìm thấy bất kỳ cá thể nào của loài cá heo sông Dương Tử. Hiện nay, loài này được xem là đã tuyệt chủng về mặt chức năng.[99][99]
Các chất ô nhiễm như thuốc trừ sâu, kim loại nặng, nhựa và các chất thải công nông nghiệp khác rất khó phân hủy và thường tích tụ trong cơ thể của những loài săn mồi đứng đầu chuỗi thức ăn như cá heo.[100] Ngoài ra, việc va chạm với tàu thuyền, đặc biệt là với chân vịt, cũng là nguyên nhân gây thương tích hoặc tử vong phổ biến.
Nhiều phương pháp đánh bắt cá, đáng chú ý nhất là dùng lưới vây để bắt cá ngừ, hay lưới trôi và lưới rê, đã vô tình giết chết rất nhiều cá heo.[101] Việc chúng vô tình bị mắc vào lưới hoặc bị kẹt trong các lưới chống động vật ăn thịt tại các trang trại nuôi cá biển là mối đe dọa lớn đối với các quần thể cá heo địa phương.[102][103] Ở một số nơi trên thế giới, như Taiji (Nhật Bản) và quần đảo Faroe, cá heo theo truyền thống được coi là thực phẩm và bị giết trong các cuộc săn bằng lao hoặc săn lùa.[104] Đáng lo ngại là thịt cá heo có hàm lượng thủy ngân cao, có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe con người khi ăn phải.[105]
Các chương trình "kiểm soát cá mập" cũng gây ra những hậu quả thảm khốc. Chương trình ở Queensland (Úc), đã giết chết khoảng 50.000 con cá mập kể từ năm 1962, cũng đã đồng thời giết chết hàng ngàn con cá heo một cách ngoài ý muốn.[106][107] Các chương trình này sử dụng lưới và bẫy trống, khiến cá heo bị mắc kẹt và chết trong đó .[108] Chỉ riêng ở Queensland, chương trình này đã giết hơn 1.000 con cá heo trong những năm gần đây.[107] Một chương trình tương tự ở KwaZulu-Natal (Nam Phi) cũng đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 2.310 con cá heo.[109]
Để giải quyết vấn đề này, các nhãn "an toàn cho cá heo" (dolphin safe) đã ra đời nhằm trấn an người tiêu dùng rằng các sản phẩm hải sản họ mua được đánh bắt bằng phương pháp không làm hại đến cá heo. Các chiến dịch đầu tiên bắt đầu từ những năm 1980, là kết quả của sự hợp tác giữa các nhà hoạt động và các công ty cá ngừ lớn. Bằng cách thay đổi loại lưới sử dụng, họ đã giúp giảm tới 50% số lượng cá heo bị chết oan. Tuy nhiên, chỉ có cá ngừ albacore là thực sự "an toàn cho cá heo" vì chúng không bị đánh bắt bằng phương pháp lùa lưới chung với cá heo.[110]
Ngoài ra, những tiếng ồn cực lớn dưới nước từ sonar của hải quân, các cuộc tập trận bắn đạn thật, hay các dự án xây dựng ngoài khơi như trang trại điện gió, cũng có thể gây hại nghiêm trọng cho cá heo. Chúng làm cá heo căng thẳng, tổn thương thính giác, và thậm chí gây ra bệnh giảm áp (decompression sickness) do cá heo phải trồi lên mặt nước quá nhanh để thoát khỏi tiếng ồn.[111][112]
Một hình thức săn bắt tàn khốc khác là "săn lùa cá heo". Người ta sẽ dùng thuyền dồn cả một đàn cá heo vào một vịnh hẹp hoặc một bãi biển, sau đó dùng các thuyền khác hoặc lưới để chặn đường thoát ra đại dương của chúng. Phương pháp này vẫn còn tồn tại ở một số nơi trên thế giới như Quần đảo Solomon, Quần đảo Faroe, Peru và Nhật Bản. Phần lớn cá heo bị săn để lấy thịt, số còn lại bị bán cho các công viên hải dương. Bất chấp sự chỉ trích gay gắt từ cộng đồng quốc tế và những rủi ro sức khỏe từ thịt cá heo bị nhiễm độc, hàng ngàn con cá heo vẫn bị giết trong các cuộc săn lùa mỗi năm.
Tác động của biến đổi khí hậu
Cá heo là động vật có vú sống ở biển với phạm vi phân bố địa lý cực kỳ rộng lớn, điều này khiến chúng đặc biệt nhạy cảm và dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu theo nhiều cách khác nhau.
Tác động phổ biến nhất chính là việc nhiệt độ nước biển trên toàn cầu ngày càng tăng.[113] Điều này đã buộc rất nhiều loài cá heo phải trải qua các đợt "dịch chuyển phạm vi", tức là rời bỏ khu vực địa lý quen thuộc của chúng để di chuyển đến những vùng nước mát mẻ hơn.[114][115] Một hệ lụy khác của việc nước biển ấm lên là sự gia tăng các đợt bùng phát tảo độc, vốn đã gây ra những cái chết hàng loạt cho loài cá heo mũi chai.[113]
Loài cá heo hông trắng Thái Bình Dương cũng bị suy giảm quần thể nghiêm trọng ở tây nam Vịnh California, vốn là ranh giới phía nam trong khu vực phân bố của chúng. Vào những năm 1980, chúng còn rất đông đúc với các đàn lên tới 200 con. Nhưng đến những năm 2000, người ta chỉ ghi nhận được hai đàn, với kích thước chỉ 20 và 30 con, và chỉ xuất hiện trong mùa mát mẻ. Sự sụt giảm này không liên quan đến sự suy giảm của các loài động vật có vú hay con mồi khác, vì vậy các nhà khoa học kết luận nguyên nhân chính là do biến đổi khí hậu.[114] Đồng thời, sự xuất hiện của loài này lại được ghi nhận tăng lên ở bờ biển phía tây Canada trong giai đoạn 1984 đến 1998.
Tại Địa Trung Hải, cả nhiệt độ bề mặt nước biển, độ mặn, cường độ dòng nước trồi (dòng nước lạnh giàu dinh dưỡng từ đáy biển) và mực nước biển đều gia tăng. Vì điều này, nguồn thức ăn bị suy giảm, dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng của quần thể cá heo mõm ngắn thường tại đây, khiến chúng bị đưa vào danh sách "Nguy cấp" vào năm 2003. Hiện nay, loài này gần như chỉ còn tồn tại ở Biển Alboran, nhờ vào hệ sinh thái đặc thù của vùng biển này khác biệt với phần còn lại của Địa Trung Hải.[116]
Ở tây bắc châu Âu, nhiều loài cá heo cũng đã thay đổi phạm vi sống. Các loài cá heo vốn ưa nước ấm, như cá heo mõm ngắn thường và cá heo sọc đã mở rộng lãnh thổ lên phía bắc ngay cả trong mùa đông. Ngược lại, cá heo mỏ trắng lại cho thấy sự gia tăng xuất hiện ở phía nam Biển Bắc kể từ những năm 1960. Thêm một bằng chứng nữa là cá heo Fraser, một loài thường thấy ở vùng nhiệt đới, đã lần đầu tiên được ghi nhận tại Vương quốc Anh vào năm 1996.
Mối quan hệ với con người


Trong lịch sử và tôn giáo
Cá heo từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa của loài người. Trong thần thoại Hy Lạp, cá heo luôn được xem là người bạn đồng hành, là vị cứu tinh của loài người. Cá heo dường như cũng rất quan trọng đối với người Minoan, dựa trên các bằng chứng nghệ thuật từ cung điện đổ nát ở Knossos. Trong cuộc khai quật năm 2009 tại một thành phố lớn của người Mycenaean ở Iklaina, một mảnh tranh tường ấn tượng đã được phát hiện, mô tả một con tàu với ba hình người và những chú cá heo.
Cá heo rất phổ biến trong thần thoại Hy Lạp, và nhiều đồng xu từ thời Hy Lạp cổ đại đã được tìm thấy có hình một người đàn ông, một cậu bé hoặc một vị thần đang cưỡi trên lưng cá heo.[117] Người Hy Lạp cổ đại rất chào đón cá heo; việc phát hiện những con cá heo bơi theo sau đuôi tàu được coi là một điềm lành.[118] Trong nghệ thuật cổ đại và cả sau này, thần Tình yêu Cupid thường được khắc họa đang cưỡi một con cá heo. Một truyền thuyết kể rằng một con cá heo đã cứu nhà thơ Arion khỏi chết đuối và đưa ông vào bờ an toàn tại Mũi Matapan, điểm cực nam của bán đảo Peloponnesus. Tại đó ngày nay có một ngôi đền thờ thần Poseidon và một bức tượng Arion cưỡi cá heo.[119]
Câu chuyện về thần rượu nho Dionysus cũng rất nổi tiếng. Ngài từng bị những tên cướp biển Etruscan bắt giữ để đòi tiền chuộc vì chúng nhầm ngài là một hoàng tử giàu có. Sau khi tàu ra khơi, Dionysus đã sử dụng thần lực của mình, khiến dây nho mọc um tùm bao phủ con tàu. Ngài biến những mái chèo thành rắn, khiến những tên thủy thủ kinh hãi nhảy xuống biển. Nhưng Dionysus đã thương xót và hóa kiếp họ thành những con cá heo, để họ dành cả đời giúp đỡ những người gặp nạn. Cá heo cũng là sứ giả của thần Poseidon và đôi khi còn làm việc vặt cho ngài. Ngoài ra, chúng còn là loài vật linh thiêng đối với cả nữ thần Aphrodite và thần Apollo.
Trong thần thoại Hindu, cá heo sông Hằng được cho là có mối liên hệ với Ganga, nữ thần của sông Hằng. Người ta kể rằng loài cá heo này là một trong những sinh vật đã báo hiệu cho sự giáng trần của vị nữ thần này từ thiên đàng. Vật cưỡi của bà là Makara, đôi khi cũng được miêu tả dưới hình dạng một con cá heo.[120]
Ở khu vực sông Amazon, loài cá heo sông Boto được cho là những sinh vật có khả năng biến hình (gọi là "encantados"). Truyền thuyết kể rằng chúng có thể hóa thành người và có con với phụ nữ loài người.
Ngược lại, có tương đối ít huyền thoại về cá heo còn sót lại trong các nền văn hóa Polynesia, mặc dù họ có truyền thống đi biển lâu đời và rất tôn kính các loài sinh vật biển khác như cá mập và chim biển. Không giống như những loài vật này, cá heo thường bị xem là một loại thức ăn chứ không phải một biểu tượng vật tổ linh thiêng. Hình ảnh cá heo được thể hiện rõ ràng nhất trong hệ thống chữ viết Rongorongo của đảo Rapa Nui. Trong khi đó, các truyền thuyết của Quần đảo Caroline miêu tả chúng tương tự như loài cá heo Boto: những sinh vật biến hình có đời sống tình dục năng động và có thể quan hệ với con người.[121]
Huy hiệu học

Cá heo cũng được sử dụng làm biểu tượng, ví dụ như trong huy hiệu học. Khi huy hiệu học phát triển vào thời Trung Cổ, người ta biết rất ít về sinh học của cá heo và chúng thường được miêu tả như một loại cá. Hình ảnh cá heo được cách điệu trong huy hiệu học ngày nay vẫn theo truyền thống này, đôi khi da của chúng còn được vẽ phủ đầy vảy cá.
Một ví dụ lịch sử nổi tiếng là huy hiệu của tỉnh Dauphiné trước đây ở miền nam nước Pháp. Từ huy hiệu này mà có huy hiệu và tước hiệu "Dauphin của Pháp", dùng để chỉ người thừa kế ngai vàng nước Pháp trước đây (tước hiệu này có nghĩa đen là "Cá heo của nước Pháp").
Hình ảnh cá heo cũng có mặt trên quốc huy của Anguilla và quốc huy của Romania. Ngoài ra, quốc huy của Barbados cũng có một con cá heo đóng vai trò là "vật hộ vệ" (supporter - hình ảnh đứng hai bên chống đỡ chiếc khiên).[122]
Huy hiệu của thị trấn Poole, Dorset, Anh, được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1563, cũng có hình một con cá heo. Ban đầu nó được miêu tả theo hình thức cách điệu của huy hiệu học, nhưng từ năm 1976 đã được vẽ lại theo phong cách tả thực (giống như thật).[123]
Trong môi trường nuôi nhốt

Sự yêu thích dành cho cá heo được hâm nóng trở lại vào những năm 1960 đã dẫn đến sự xuất hiện của nhiều công viên cá heo (dolphinarium) trên khắp thế giới, giúp công chúng có thể tiếp cận loài vật này. Tuy nhiên, những lời chỉ trích từ những người yêu động vật và các luật về phúc lợi động vật đã buộc nhiều nơi phải đóng cửa, mặc dù hàng trăm công viên vẫn còn tồn tại trên khắp thế giới. Ở Hoa Kỳ, nổi tiếng nhất là các công viên động vật có vú biển SeaWorld. Ở Trung Đông, được biết đến nhiều nhất là Dolphin Bay tại Atlantis, The Palm và Dubai Dolphinarium. Cá heo mũi chai là loài phổ biến nhất được nuôi trong các công viên này vì chúng tương đối dễ huấn luyện, có tuổi thọ cao trong điều kiện nuôi nhốt và có vẻ ngoài thân thiện.
Hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn, con cá heo mũi chai đang sống trong môi trường nuôi nhốt trên khắp thế giới, dù con số chính xác rất khó xác định. Các loài khác được nuôi nhốt là cá heo đốm, cá voi sát thủ giả và cá heo thông thường, cá heo Commerson, cũng như cá heo răng nhám, nhưng tất cả đều có số lượng ít hơn nhiều so với cá heo mũi chai. Ngoài ra còn có chưa đến mười con cá voi hoa tiêu, cá heo sông Amazon, cá heo Risso, cá heo spinner, hoặc cá heo tucuxi đang bị nuôi nhốt.[124] Có một con cá heo lai bất thường và rất hiếm, được gọi là "wolphin", đang được nuôi tại Công viên Sea Life ở Hawaii. Đây là con lai giữa cá heo mũi chai và cá voi sát thủ giả .[125]
Số lượng cá voi sát thủ (orca) bị nuôi nhốt là rất nhỏ, đặc biệt khi so sánh với số lượng cá heo mũi chai, với chỉ 60 cá thể bị giam giữ trong các thủy cung tính đến năm 2017.[126] Trí thông minh, khả năng huấn luyện, ngoại hình nổi bật, tính cách vui tươi trong môi trường nuôi nhốt và kích thước khổng lồ đã khiến cá voi sát thủ trở nên nổi tiếng tại các thủy cung và công viên giải trí dưới nước. Từ năm 1976 đến 1997, 55 con cá voi đã bị bắt từ tự nhiên ở Iceland, 19 con từ Nhật Bản, và 3 con từ Argentina. Những con số này không bao gồm những con đã chết trong quá trình bắt giữ. Việc bắt sống đã giảm đáng kể trong những năm 1990, và đến năm 1999, khoảng 40% trong số 48 cá thể được trưng bày trên thế giới là được sinh ra trong môi trường nuôi nhốt.[127]
Nhiều tổ chức như Phòng thí nghiệm Hàng hải Mote thực hiện việc giải cứu và phục hồi chức năng cho những con cá heo bị bệnh, bị thương, mắc cạn hoặc mồ côi. Trong khi đó, các tổ chức khác như Tổ chức Bảo tồn Cá voi và Cá heo và Hiệp hội Bảo tồn Cá heo Hồng Kông thì hoạt động vì mục tiêu bảo tồn và phúc lợi cho cá heo. Ấn Độ đã tuyên bố cá heo là động vật thủy sinh quốc gia trong nỗ lực bảo vệ loài cá heo sông Hằng đang có nguy cơ tuyệt chủng. Khu bảo tồn cá heo sông Hằng Vikramshila đã được thành lập trên sông Hằng để bảo vệ loài vật này.[128]
Trong quân đội

Một số quân đội của các nước trên thế giới đã sử dụng cá heo cho nhiều mục đích khác nhau, từ tìm kiếm mìn cho đến giải cứu những người bị lạc hoặc bị mắc kẹt. Việc sử dụng cá heo trong quân đội đã bị soi xét kỹ lưỡng trong Chiến tranh Việt Nam, khi có tin đồn lan truyền rằng Hải quân Hoa Kỳ đang huấn luyện cá heo để giết các thợ lặn Việt Nam.[129] Hải quân Hoa Kỳ đã phủ nhận việc họ từng huấn luyện cá heo cho mục đích chiến đấu ở bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên, họ vẫn đang tiếp tục huấn luyện cá heo cho các nhiệm vụ khác trong khuôn khổ Chương trình Động vật có vú trong Môi trường Biển của Hải quân Hoa Kỳ.
Quân đội Nga được cho là đã đóng cửa chương trình động vật có vú biển của họ vào đầu những năm 1990. Vào năm 2000, báo chí đưa tin rằng những con cá heo được Hải quân Liên Xô huấn luyện để giết người đã được bán cho Iran.[130]
Ngoài ra, quân đội cũng quan tâm đến việc ngụy trang các phương tiện liên lạc dưới nước bằng cách tạo ra những tiếng lách cách nhân tạo giống hệt của cá heo.[131]
Trị liệu
Cá heo đang là một lựa chọn ngày càng phổ biến trong liệu pháp có sự hỗ trợ của động vật (animal-assisted therapy) cho các vấn đề tâm lý và khuyết tật phát triển. Ví dụ, một nghiên cứu năm 2005 cho thấy cá heo là một phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh trầm cảm từ nhẹ đến trung bình.[132]
Tuy nhiên, nghiên cứu này đã bị chỉ trích vì nhiều lý do, bao gồm việc thiếu kiến thức về việc liệu cá heo có hiệu quả hơn các vật nuôi thông thường hay không.[133] Các bài đánh giá về nghiên cứu này và các nghiên cứu khác về liệu pháp có sự hỗ trợ của cá heo (DAT) đã phát hiện ra những sai sót quan trọng về phương pháp luận. Họ kết luận rằng không có bằng chứng khoa học thuyết phục nào cho thấy DAT là một liệu pháp hợp pháp, hay nó mang lại nhiều lợi ích hơn là việc cải thiện tâm trạng chỉ trong chốc lát.[134]
Tranh cãi
Mặc dù cá heo thường có mối quan hệ tốt với con người, đã có một số vụ tấn công liên quan đến cá heo xảy ra, dù hầu hết chỉ gây thương tích nhỏ.[135] Cá voi sát thủ (Orca), loài cá heo lớn nhất, đã có liên quan đến những vụ tấn công gây chết người trong môi trường nuôi nhốt. Nắm giữ kỷ lục về các vụ tấn công gây chết người được ghi nhận là một con đực tên là Tilikum, sống tại SeaWorld từ năm 1992 cho đến khi chết vào năm 2017.[136][137][138] Tilikum có liên quan đến cái chết của ba người trong ba vụ việc khác nhau (vào các năm 1991, 1999 và 2010).[139] Hành vi của Tilikum đã bắt nguồn cho việc sản xuất bộ phim tài liệu Blackfish, tập trung vào những hậu quả của việc nuôi nhốt cá voi sát thủ. Trong tự nhiên cũng có những sự cố được ghi nhận, nhưng không có vụ nào gây tử vong.[140]
Các vụ tấn công chết người từ các loài khác thì ít phổ biến hơn, nhưng có một trường hợp đã được ghi nhận ngoài khơi bờ biển Brazil vào năm 1994, khi một người đàn ông đã tử vong sau khi bị một con cá heo mũi chai tên là Tião tấn công.[141][142] Con cá heo này đã phải chịu đựng sự quấy rối từ du khách, bao gồm cả việc cố gắng chọc que kem vào lỗ phun khí của nó.[143] Các vụ việc không gây chết người xảy ra thường xuyên hơn, cả trong tự nhiên và trong môi trường nuôi nhốt.
Mặc dù các vụ tấn công của cá heo xảy ra ít thường xuyên hơn nhiều so với các loài động vật biển khác, chẳng hạn như cá mập, một số nhà khoa học lo ngại về các hoạt động tiếp xúc giữa người và cá heo được tổ chức một cách thiếu cẩn trọng. Tiến sĩ Andrew J. Read, một nhà sinh vật học tại Phòng thí nghiệm Hàng hải của Đại học Duke, người chuyên nghiên cứu các vụ tấn công của cá heo, đã chỉ ra rằng cá heo là loài động vật săn mồi to lớn và hoang dã, vì vậy mọi người nên cẩn thận hơn khi tiếp xúc với chúng.[135]
Một số nhà khoa học đã nghiên cứu hành vi của cá heo và đề xuất rằng trí thông minh cao bất thường của chúng so với các loài động vật khác có nghĩa là cá heo nên được xem là "những cá nhân phi con người" (non-human persons). Họ cho rằng chúng nên có các quyền cụ thể của riêng mình và việc nuôi nhốt chúng cho mục đích giải trí hoặc giết chúng là không thể chấp nhận được về mặt đạo đức – dù là cố ý để làm thực phẩm hay là vô tình trong quá trình đánh bắt (by-catch).[144][145] Bốn quốc gia – Chile, Costa Rica, Hungary, và Ấn Độ – đã tuyên bố cá heo là "cá nhân phi con người" và đã cấm việc bắt giữ và nhập khẩu cá heo sống nhằm phục vụ mục đích giải trí.[146][147][148]
Tiêu thụ
Ẩm thực

Ở một số nơi trên thế giới, như Taiji ở Nhật Bản và Quần đảo Faroe, cá heo theo truyền thống được coi là thực phẩm và bị giết trong các cuộc săn bằng lao hoặc săn lùa.[104][149]
Thịt cá heo được tiêu thụ ở một số ít quốc gia trên thế giới, bao gồm Nhật Bản và Peru (nơi nó được gọi là chancho marino, hay "thịt lợn biển").[150] Mặc dù Nhật Bản có thể là ví dụ nổi tiếng và gây tranh cãi nhất, nhưng chỉ có một thiểu số rất nhỏ người dân ở đây từng nếm thử món thịt này.[151] Thịt cá heo rất chắc và có màu đỏ sẫm đến mức trông gần như màu đen. Mỡ nằm trong một lớp dày giữa phần thịt và da. Khi ăn thịt cá heo ở Nhật Bản, người ta thường cắt nó thành những lát mỏng và ăn sống dưới dạng sashimi, ăn kèm với hành tây, mù tạt hoặc tỏi xay, giống như cách ăn sashimi thịt ngựa (basashi). Khi nấu chín, thịt cá heo được cắt thành những miếng vừa ăn rồi tẩm bột chiên hoặc hầm trong sốt miso với rau củ. Thịt cá heo nấu chín có hương vị rất giống gan bò.
Tham khảo
- ^ "New Dolphin Species Discovered in Australia". ngày 15 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2012.
- ^ "Dolphin Safari sightings log". 2006. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ Texas Tech University (1997). "Mammals of Texas - Rough-toothed Dolphin". Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2006.
- ^ Robin's Island. "Dolphins at SeaWorld California". Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ Denise L. Herzing, Kelly Moewe and Barbara J. Brunnick (2003). "Interspecies interactions between Atlantic spotted dolphins, Stenella frontalis and bottlenose dolphins, Tursiops truncatus, on Great Bahama Bank, Bahamas" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ Lee, Jeanette J. (2005). Livescience.com - Whale-Dolphin Hybrid Has Baby Wholphin "[[Louis Herman]], interviewed for Associated Press". Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2007.
{{Chú thích web}}: Kiểm tra giá trị|url=(trợ giúp); URL chứa liên kết wiki (trợ giúp) - ^ Associated Press / FOX news (2006). "Japanese Researchers Find Dolphin With 'Remains of Legs'". Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2006.
- ^ The Institute for Marine Mammal Studies (IMMS). "Dolphin Frequently Asked Questions: Why is a dolphin a mammal and not a fish?". Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2008.
- ^ VirtualExplorers.org. "Amazon River Dolphin fact sheet All About Dolphins". Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2008.
- ^ US National Marine Mammal Foundation. "Scientists Find Clues in Dolphins to Treat Diabetes in Humans". Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2010.
- ^ The Dolphin Institute. "How Dolphins Perceive Their World". Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2009.
- ^ Goodson, A.D.; Klinowska, M. (1990). Thomas; Kastelein (biên tập). A Proposed Echolocation Receptor for the Bottlenose Dolphin (Tursiops truncatus): Modelling the Receive Directivity from Tooth and Lower Jaw Geometry NATO ASI Series A: Sensory Abilities of Cetaceans. Quyển 196:255-267. NY: Plenum. ISBN 0-30-643695-7.
{{Chú thích sách}}: Đã định rõ hơn một tham số trong|author=và|last1=(trợ giúp) - ^ SeaWorld. "Bottlenose Dolphins - Senses". Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ Bjorn Mauck, Ulf Eysel and Guide Dehnhardt (2000). "Selective heating of vibrissal follicles in seals (Phoca Vitulina) and dolphins (Sotalia Fluviatilis Guianensis)". Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007.
- ^ Laurie Stepanek (1998). "Amazon River Dolphin (Inia geoffrensis)". Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007.
- ^ Siebert, Charles (ngày 8 tháng 7 năm 2009). "Watching Whales Watching Us". The New York Times Magazine. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2015.
- ^ Watson, K.K.; Jones, T. K.; Allman, J. M. (2006). "Dendritic architecture of the Von Economo neurons". Neuroscience. 141 (3): 1107–1112. doi:10.1016/j.neuroscience.2006.04.084. PMID 16797136. S2CID 7745280.
- ^ Allman, John M.; Watson, Karli K.; Tetreault, Nicole A.; Hakeem, Atiya Y. (2005). "Intuition and autism: a possible role for Von Economo neurons". Trends Cogn Sci. 9 (8): 367–373. doi:10.1016/j.tics.2005.06.008. PMID 16002323. S2CID 14850316.
- ^ Hof, Patrick R.; Van Der Gucht, Estel (2007). "Structure of the cerebral cortex of the humpback whale, Megaptera novaeangliae (Cetacea, Mysticeti, Balaenopteridae)". The Anatomical Record. 290 (1): 1–31. doi:10.1002/ar.20407. PMID 17441195. S2CID 15460266.
- ^ "How smart are they?". Orlando Sentinel. ngày 7 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ Fields, R. Douglas. "Are whales smarter than we are?". Scientific American. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2015.
- ^ "Elephant Self-Awareness Mirrors Humans". Live Science. ngày 30 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2015.
- ^ a b Derr, Mark (tháng 5 năm 2001). "Mirror test". The New York Times. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
- ^ Marten, Ken; Psarakos, Suchi (tháng 6 năm 1995). "Using Self-View Television to Distinguish between Self-Examination and Social Behavior in the Bottlenose Dolphin (Tursiops truncatus)". Consciousness and Cognition. 4 (2): 205–224. doi:10.1006/ccog.1995.1026. PMID 8521259. S2CID 44372881.
- ^ Gallup Jr, Gordon G., and James R. Anderson. "Self-recognition in animals: Where do we stand 50 years later? Lessons from cleaner wrasse and other species." Psychology of Consciousness: Theory, Research, and Practice (2019).
- ^ Davidson College, biology department (2001). "Bottlenose Dolphins – Altruism". Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
- ^ Lilley, Ray (ngày 12 tháng 3 năm 2008). "Dolphin Saves Stuck Whales, Guides Them Back to Sea". National Geographic. Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
- ^ "Dolphins save swimmers from shark". CBC News. ngày 24 tháng 11 năm 2004. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007.
- ^ Celizic, Mike (ngày 8 tháng 11 năm 2007). "Dolphins save surfer from becoming shark's bait". Today. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2022.
- ^ Dolphin Mysteries: Unlocking the Secrets of Communication. Yale University Press. 2008. tr. 83. ISBN 978-0-300-12112-4. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2014.
- ^ Rowan Hooper (2005). "Dolphins teach their children to use sponges". Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2021.
- ^ Nic Fleming (ngày 5 tháng 12 năm 2007). "Dolphins woo females with bunches of weeds". The Daily Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2022.
- ^ Bathgate, Adrian (ngày 13 tháng 3 năm 2008). "Dolphin saves 2 whales stuck on New Zealand beach". Reuters. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2022.
- ^ "Dolphin spotters shaken by Ceredigion porpoise killing". BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ George Johnson. "Is Flipper A Senseless Killer?". Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ Dolphin pictured killing porpoise by flipping it into air, BBC
- ^ a b Silva, J. Jr.; Silva, F.; Sazima, I. (2005). "Rest, nurture, sex, release, and play: diurnal underwater behaviour of the spinner dolphin at Fernando de Noronha Archipelago, SW Atlantic – Mating behaviour" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2014.
- ^ CMS Sotalia fluviatilis – Reproduction Lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2013 tại Wayback Machine, article. Retrieved March 16, 2013.
- ^ Orcas (Killer Whales), Orcinus orca – Life History, Marinebio.org. Retrieved March 16, 2014.
- ^ Simmonds, Mark (2007). Whales and Dolphins of the World. New Holland Publishers. tr. 32. ISBN 978-1-84537-820-2.[liên kết hỏng]
- ^ W. Perrin; S. Reilly (1984). Reproductive Parameters of Dolphins (PDF).
- ^ Würsig, Bernd; Orbach, Dara N. (ngày 25 tháng 9 năm 2023). Sex in Cetaceans: Morphology, Behavior, and the Evolution of Sexual Strategies (bằng tiếng Anh). Springer Nature. ISBN 978-3-031-35651-3.
- ^ Volker Sommer; Paul L. Vasey (2006). "Chapter 4". Homosexual Behaviour in Animals – an Evolutionary perspective.
- ^ Bruce Bagemihl (1999). Biological Exuberance – Animal Homosexuality and Natural Diversity.
- ^ Moye, David (ngày 7 tháng 9 năm 2012). "SCARY VIDEO: Dolphin Gets Too Frisky With Scuba Divers". HuffPost. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
- ^ Amy Samuels; Lars Bejder; Rochelle Constantine; Sonja Heinrich (2003). "chapter 15 Marine Mammals: Fisheries, Tourism and Management Issues" (PDF). Cetaceans that are typically lonely and seek human company. tr. 266–268. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ Scott, Erin; Mann, Janet; Watson-Capps, Jana; Sargeant, Brooke; Connor, Richard (2005). "Aggression in bottlenose dolphins: Evidence for sexual coercion, male-male competition, and female tolerance through analysis of tooth-rake marks and behaviour". Behaviour. 142 (1): 21–44. doi:10.1163/1568539053627712. S2CID 4502911.
- ^ R. Connor; R. Smolker; A. Richards (1992). Two levels of alliance formation among male bottlenose dolphins (PDF).
- ^ Mukhametov, L. M.; Supin, A. Ya. (1978). "Sleep and vigil in dolphins". Marine mammals. Moscow: Nauka.
- ^ Mukhametov, Lev (1984). "Sleep in Marine Mammals". Sleep Mechanisms. Experimental Brain Research Supplementum. Quyển 8. tr. 227–238. doi:10.1007/978-3-642-69554-4_17 (không hoạt động July 1, 2025). ISBN 978-3-642-69556-8.
{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: DOI không hoạt động tính đến tháng 7 2025 (liên kết) - ^ Dallas Grasby (1994). "Excerpts from 'Sleep in marine mammals', L.M. Mukhametov". Experimental Brain Research. 8 (suppl.). Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2008.
- ^ McCormick, James G. (2007). "Behavioral Observations of Sleep and Anesthesia in the Dolphin: Implications for Bispectral Index Monitoring of Unihemispheric Effects in Dolphins". Anesthesia & Analgesia. 104 (1): 239–241. doi:10.1213/01.ane.0000250369.33700.eb. PMID 17179314. S2CID 40939919.
- ^ "Sperm whales caught 'cat napping'". BBC News. ngày 20 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2008.
- ^ Martin, G. Neil; Carlson, Neil R.; Buskist, William (1997). Psychology, third edition. Pearson Allyn & Bacon. tr. 383. ISBN 978-0-273-71086-8.
- ^ a b c "Dolphin's diet". Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013.
- ^ U.S. Department of Commerce National Oceanic and Atmospheric Administration National Marine Fisheries Service. "Coastal Stock(s) of Atlantic Bottlenose Dolphin: Status Review and Management Proceedings and Recommendations from a Workshop held in Beaufort, North Carolina, 13 September 1993 – 14 September 1993" (PDF). tr. 56–57.
- ^ Gregory K. Silber, Dagmar Fertl (1995) – Intentional beaching by bottlenose dolphins (Tursiops truncatus) in the Colorado River Delta, Mexico.
- ^ M.B. Santos; R. Fernández; A. López; J.A. Martínez; G.J. Pierce (2007). "Variability in the diet of bottlenose dolphin, Tursiops truncatus, in Galician waters, north-western Spain, 1990–2005". Journal of the Marine Biological Association of the UK. 87 (1): 231. Bibcode:2007JMBUK..87..231S. doi:10.1017/S0025315407055233. S2CID 85767272.
- ^ "Brazil's sexiest secret". The Daily Telegraph. London. ngày 8 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007.
- ^ Moti Nissani (2007). "Bottlenose Dolphins in Laguna Requesting a Throw Net Supporting material for Dr. Nissani's presentation at the 2007 International Ethological Conference". YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ Hunt, Katie (ngày 25 tháng 6 năm 2020). "Dolphins are learning smart fish-catching trick from peers, not mothers". CNN. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020.
- ^ Viegas, Jennifer (2011). "Dolphins Talk Like Humans". Discovery News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2011.
- ^ Au, Whitlow W.L. (ngày 6 tháng 12 năm 2012). The Sonar of Dolphins. Springer Science & Business Media. ISBN 978-1-4612-4356-4.
- ^ "Dolphins 'call each other by name'". BBC News. ngày 22 tháng 7 năm 2013.
- ^ Janik, Vincent; Laela Sayigh (ngày 7 tháng 5 năm 2013). "Communication in bottlenose dolphins: 50 years of signature whistle research". Journal of Comparative Physiology. 199 (6): 479–489. doi:10.1007/s00359-013-0817-7. PMID 23649908. S2CID 15378374.
- ^ "Marine Mammal vocalizations: language or behavior?". ngày 24 tháng 8 năm 2013.
- ^ "Dolphins keep lifelong social memories, longest in a non-human species". ngày 24 tháng 8 năm 2013.
- ^ Emily T. Griffiths (2009). "Whistle repertoire analysis of the short beaked Common Dolphin, Delphinus delphis, from the Celtic Deep and the Eastern Tropical Pacific Ocean", Master's Thesis, School of Ocean Sciences Bangor University
- ^ Melba C. Caldwell et al. – Statistical Evidence for Signature Whistles in the Spotted Dolphin, Stenella plagiodon.
- ^ Melba C. Caldwell et al. – Statistical Evidence for Signature Whistles in the Pacific Whitesided Dolphin, Lagenorhynchus obliquidens.
- ^ Rüdiger Riesch et al. – Stability and group specificity of stereotyped whistles in resident killer whales, Orcinus orca, off British Columbia.
- ^ Quick, Nicola; Vincent Janik (2008). "Whistle Rates of Wild Bottlenose Dolphins (Tursiops truncatus): Influences of Group Size and Behavior". Journal of Comparative Psychology. 122 (3): 305–311. doi:10.1037/0735-7036.122.3.305. PMID 18729659.
- ^ Weihs, D. (2002). "Dynamics of Dolphin Porpoising Revisited". Integrative and Comparative Biology. 42 (5): 1071–1078. doi:10.1093/icb/42.5.1071. PMID 21680390.
- ^ David Lusseau (2006), Why do dolphins jump? Interpreting the behavioural repertoire of bottlenose dolphins (Tursiops sp.) in Doubtful Sound, New Zealand
- ^ Corey Binns – LiveScience (2006), How Dolphins Spin, and Why, article. Retrieved September 8, 2013.
- ^ Walker, Sally M. (tháng 11 năm 2007). Dolphins. Lerner Publications. tr. 6, 30. ISBN 978-0-8225-6767-7.
- ^ a b c Robin D. Paulos (2010), Play in Wild and Captive Cetaceans
- ^ Brenda McCowan; Lori Marino; Erik Vance; Leah Walke; Diana Reiss (2000). "Bubble Ring Play of Bottlenose Dolphins (Tursiops truncatus): Implications for Cognition" (PDF). Journal of Comparative Psychology. 114 (1): 98–106. doi:10.1037/0735-7036.114.1.98. PMID 10739315. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2010.
- ^ Mark H. Deakos et al. (2010), Two Unusual Interactions Between a Bottlenose Dolphin (Tursiops truncatus) and a Humpback Whale (Megaptera novaeangliae) in Hawaiian Waters.
- ^ Cathy Hayes for Irish Central (2011), Amazing footage of a dog playing with a dolphin off the coast of Ireland, article. Retrieved September 8, 2013.
- ^ Staff writers (ngày 8 tháng 2 năm 2017). "'Puff, puff, pass': How WA's dolphins are using blowfish to get high". WAToday. Số February 8, 2017. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
- ^ Moylan, Brian (ngày 10 tháng 2 năm 2017). "Apparently Dolphins in Australia Like to Get Stoned by Chewing on Toxic Blowfish". Vice. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
- ^ Wilcox, Christie (ngày 30 tháng 12 năm 2013). "Do Stoned Dolphins Give 'Puff Puff Pass' A Whole New Meaning?". Science Sushi. Discover. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
- ^ a b c "Billie". Dolphin Dock. ngày 15 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2022.
- ^ a b Bossley M, Steiner A, Brakes P, Shrimpton J, Foster C, Rendell L (tháng 9 năm 2018). "Tail walking in a bottlenose dolphin community: the rise and fall of an arbitrary cultural 'fad'". Biol. Lett. 14 (9). doi:10.1098/rsbl.2018.0314. PMC 6170752. PMID 30185606.
- ^ Pisani, Ashleigh (ngày 9 tháng 5 năm 2018). "The incredible tale of Billie the Port River dolphin — the world's first wild tailwalker". Adelaide Now. Portside Messenger.
- ^ a b Sutton, Malcolm (ngày 4 tháng 4 năm 2022). "Why are the dolphins dying?". ABC News. Australian Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2022.
- ^ "The amazing story of Billie, the dolphin who taught her peers how to moonwalk". Gentside UK. ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2022.
- ^ Michael R. Heithaus (1999), Predator-prey and competitive interactions between sharks (order Selachii) and dolphins (parvorder Odontoceti): a review
- ^ Nadia Drake for WIRED (2013), Photographer Captures Stunning Killer Whale Attack on Dolphin, article. Retrieved March 14, 2022.
- ^ Bossart, G. D. (2007). "Emerging diseases in marine mammals: from dolphins to manatees" (PDF). Microbe. 2 (11): 544–549. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2014.
- ^ Woodard, J. C.; Zam, S. G.; Caldwell, D. K.; Caldwell, M. C. (1969). "Some Parasitic Diseases of Dolphins". Veterinary Pathology. 6 (3): 257–272. doi:10.1177/030098586900600307. PMID 5817449. S2CID 26842976.
- ^ Bellière, E. N.; Esperón, F.; Sánchez-Vizcaíno, J. M. (2011). "Genetic comparison among dolphin morbillivirus in the 1990–1992 and 2006–2008 Mediterranean outbreaks". Infection, Genetics and Evolution. 11 (8): 1913–1920. Bibcode:2011InfGE..11.1913B. doi:10.1016/j.meegid.2011.08.018. PMID 21888991.
- ^ Jane J. Lee for National Geographic (2013), What's Killing Bottlenose Dolphins? Experts Discover Cause., article. Retrieved December 4, 2013.
- ^ Guardo, G. D.; Marruchella, G.; Agrimi, U.; Kennedy, S. (2005). "Morbillivirus Infections in Aquatic Mammals: A Brief Overview". Journal of Veterinary Medicine, Series A. 52 (2): 88–93. doi:10.1111/j.1439-0442.2005.00693.x. hdl:11575/80640. PMID 15737178.
- ^ Stone, B. M.; Blyde, D. J.; Saliki, J. T.; Blas-Machado, U.; Bingham, J.; Hyatt, A.; Wang, J.; Payne, J.; Crameri, S. (2011). "Fatal cetacean morbillivirus infection in an Australian offshore bottlenose dolphin (Tursiops truncatus)". Australian Veterinary Journal. 89 (11): 452–457. doi:10.1111/j.1751-0813.2011.00849.x. PMID 22008125.
- ^ US National Marine Mammal Foundation (ngày 18 tháng 2 năm 2010). "Scientists Find Clues in Dolphins to Treat Diabetes in Humans". Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2010.
- ^ Georgetown University Medical Center. "Dolphins' "Remarkable" Recovery from Injury Offers Important Insights for Human Healing". Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2011.
- ^ a b Douglas Williams for Shanghai Daily (ngày 4 tháng 12 năm 2006). "Yangtze dolphin may be extinct". Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2018.
- ^ Palumbi, Stephen R. (ngày 30 tháng 6 năm 2010). "TED: Stephen Palumbi: Following the mercury trail". Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011 – qua YouTube.
- ^ Clover, Charles (2008). The End of the Line: How Overfishing is Changing the World and what We Eat. University of California Press. ISBN 978-0-520-25505-0.
- ^ Díaz López, Bruno; Bernal Shirai, J.A. (2006). "Bottlenose dolphin (Tursiops truncatus) presence and incidental capture in a marine fish farm on the north-eastern coast of Sardinia (Italy)". Journal of the Marine Biological Association of the UK. 87: 113–117. doi:10.1017/S0025315407054215. S2CID 86115152.
- ^ Díaz López, Bruno (2006). "Interactions between Mediterranean bottlenose dolphins (Tursiops truncatus) and gillnets off Sardinia, Italy". ICES Journal of Marine Science. 63 (5): 946–951. Bibcode:2006ICJMS..63..946D. doi:10.1016/j.icesjms.2005.06.012.
- ^ a b Matsutani, Minoru (ngày 23 tháng 9 năm 2009). "Details on how Japan's dolphin catches work". Japan Times. tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2009.
- ^ Johnston, Eric (ngày 23 tháng 9 năm 2009). "Mercury danger in dolphin meat". Japan Times. tr. 3.
- ^ "Aussie shark population in staggering decline. Rhian Deutrom. December 14, 2018. Retrieved December 26, 2018".
- ^ a b "Action for Dolphins. Queensland's Shark Control Program Has Snagged 84,000 Animals. Thom Mitchell. November 20, 2015. Retrieved December 26, 2018". ngày 12 tháng 5 năm 2023.
- ^ ""Shark Culling". marineconservation.org.au. Archived from the original on 2018-10-02. Retrieved December 26, 2018". Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2018.
- ^ ""Shark Nets". sharkangels.org. Retrieved December 26, 2018".
- ^ "Time of Truth For US Dolphin Safe Logos". atuna. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2015.
- ^ CBC news (ngày 9 tháng 10 năm 2003). "Navy sonar may be killing whales, dolphins". CBC News. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ "Npower renewables Underwater noise & vibration, section 9.4" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Evans, Peter G.H.; Bjørge, Arne (ngày 28 tháng 11 năm 2013). "Impacts of climate change on marine mammals" (PDF). MCCIP Science Review 2013.
- ^ a b Würsig, Bernd; Reeves, Randall R.; Ortega-Ortiz, J. G. (2001), Evans, Peter G. H.; Raga, Juan Antonio (biên tập), "Global Climate Change and Marine Mammals", Marine Mammals: Biology and Conservation (bằng tiếng Anh), Boston, MA: Springer US, tr. 589–608, doi:10.1007/978-1-4615-0529-7_17, ISBN 978-1-4615-0529-7
- ^ Salvadeo, CJ; Lluch-Belda, D; Gómez-Gallardo, A; Urbán-Ramírez, J; MacLeod, CD (ngày 10 tháng 3 năm 2010). "Climate change and a poleward shift in the distribution of the Pacific white-sided dolphin in the northeastern Pacific". Endangered Species Research (bằng tiếng Anh). 11 (1): 13–19. doi:10.3354/esr00252. ISSN 1863-5407.
- ^ Cañadas, A.; Vázquez, J.A. (ngày 1 tháng 7 năm 2017). "Common dolphins in the Alboran Sea: Facing a reduction in their suitable habitat due to an increase in Sea surface temperature". Deep Sea Research Part II: Topical Studies in Oceanography (bằng tiếng Anh). 141: 306–318. Bibcode:2017DSRII.141..306C. doi:10.1016/j.dsr2.2017.03.006. ISSN 0967-0645.
- ^ "Taras". Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2010.
- ^ Eyers, Jonathan (ngày 3 tháng 12 năm 2012). Don't Shoot the Albatross!: Nautical Myths and Superstitions. Bloomsbury Publishing. ISBN 978-1-4081-3213-5.
- ^ Herodotus I.23; Thucydides I.128, 133; Pausanias iii.25, 4
- ^ Singh, Vijay (1997). The River Goddess. Creative Education. ISBN 978-0-88682-825-7.
- ^ Cressey, Jason (tháng 9 năm 1998). "Making a Splash in the Pacific: Dolphin and Whale Myths and Legends of Oceania" (PDF). islandheritage.org. The POD-People, Oceans, Dolphins (Vancouver, Canada). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2018.
- ^ Hentea, Călin (2007). Brief Romanian Military History. Scarecrow Press. ISBN 978-0-8108-5820-6.
- ^ Description of the coat of arms, Borough of Poole information sheet, undated
- ^ Rose, Naoimi; Parsons, E.C.M.; Farinato, Richard. The Case Against Marine Mammals in Captivity (PDF) (ấn bản thứ 4). Humane Society of the United States. tr. 13, 42, 43, 59. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
- ^ Sean B. Carroll. "Remarkable creatures". Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
- ^ "Orcas in Captivity – A look at killer whales in aquariums and parks". ngày 23 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênDolphins - ^ india.gov. "National Aquatic Animal". india.gov.
- ^ PBS – Frontline. "The Story of Navy dolphins". PBS. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2008.
- ^ "Iran buys kamikaze dolphins". BBC News. ngày 8 tháng 3 năm 2000. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2008.
- ^ Hsu, Jeremy (ngày 10 tháng 12 năm 2020). "The Military Wants to Hide Covert Messages in Marine Mammal Sounds". Hakai Magazine. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2020.
- ^ Antonioli, C; Reveley, MA (2005). "Randomised controlled trial of animal facilitated therapy with dolphins in the treatment of depression". BMJ (Clinical Research Ed.). 331 (7527): 1231–1234. doi:10.1136/bmj.331.7527.1231. JSTOR 25455488. PMC 1289317. PMID 16308382.
- ^ Biju Basil; Maju Mathews (2005). "Methodological concerns about animal-facilitated therapy with dolphins". BMJ. 331 (7529): 1407. doi:10.1136/bmj.331.7529.1407. PMC 1309662. PMID 16339258.
- ^ Lori Marino; Scott O. Lilienfeld (2007). "Dolphin-Assisted Therapy: more flawed data and more flawed conclusions" (PDF). Anthrozoös. 20 (3): 239–49. CiteSeerX 10.1.1.554.7777. doi:10.2752/089279307X224782. S2CID 6119940. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2008.
- ^ a b William Broad (ngày 6 tháng 7 năm 1999). "An article on the aggressive nature of dolphins". Fishingnj.org. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ Zimmerman, Tim (2011). "The Killer in the Pool". The Best American Sampler 2011. Houghton Mifflin Harcourt. tr. 336.
- ^ "Corpse Is Found on Whale". The New York Times. ngày 7 tháng 7 năm 1999. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2011.
- ^ "SeaWorld trainer killed by killer whale". CNN. ngày 25 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
- ^ Pilkington, Ed (ngày 25 tháng 2 năm 2010). "Killer whale Tilikum to be spared after drowning trainer by ponytail". The Guardian. London.
- ^ "Killer whale bumps but doesn't bite boy". Juneau Empire – Alaska's Capital City Online Newspaper. ngày 19 tháng 8 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ Wong, David (ngày 7 tháng 2 năm 2008). "The 6 Cutest Animals That Can Still Destroy You". Cracked.com. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ "Male Dolphin Kills Man". Science-frontiers.com. Sep–Oct 1995. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ "LONE DOLPHINS – FRIEND OR FOE?". BBC. ngày 9 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2012.
- ^ White, Thomas I. (ngày 18 tháng 5 năm 2009). In Defense of Dolphins: The New Moral Frontier. John Wiley & Sons. ISBN 978-0-470-46969-9.
- ^ Leake, Jonathan; Brooks, Helen (ngày 3 tháng 1 năm 2010). "Scientists say dolphins should be treated as 'non- human persons'" (PDF). The Sunday Times. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2010 – qua dolphinmovie.com.
- ^ Land, Graham (July 29, 2013). Dolphin rights: The world should follow India's lead. Lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2013 tại Wayback Machine. Asiancorrespondent.com. Hybrid News Ltd. Retrieved July 29, 2013.
- ^ "Policy on establishment of dolphinarium" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2013.
- ^ "Dolphins gain unprecedented protection in India | DW | 24.05.2013". DW.COM.
- ^ McCurry, Justin (ngày 14 tháng 9 năm 2009). "Dolphin slaughter turns sea red as Japan hunting season returns". The Guardian. London. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ Hall, Kevin G. (2003). "Dolphin meat widely available in Peruvian stores: Despite protected status, 'sea pork' is popular fare". The Seattle Times.
- ^ Kearney, Christine (ngày 31 tháng 7 năm 2009). "Dolphin slaughter in Japan subject of new film". Reuters. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2023.
Đọc thêm
- Carwardine, M., Whales, Dolphins and Porpoises, Dorling Kindersley, 2000. ISBN 0-7513-2781-6
- De Rohan, Anuschka. Why dolphins are deep thinkers, The Guardian, 3 tháng 7 năm 2003.
- Williams, Heathcote, Whale Nation, New York, Harmony Books, 1988. ISBN 978-0-517-56932-0
Liên kết ngoài
Conservation, research and news:
- The Whale & Dolphin Conservation Society (WDCS)
- The Dolphin Institute
- The Dolphin research center
- Digital Library of Dolphin Development Lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2010 tại Wayback Machine Cetacean origins, Thewissen Lab
- The Bottlenose Dolphin Research Institute
- The Oceania Project, Caring for Whales and Dolphins
- Tursiops.org: Current Cetacean-related news Lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2009 tại Wayback Machine
- Whale Trackers - An online educational documentary series about whales, dolphins and porpoises Lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2017 tại Wayback Machine.
- World Wide Fund for Nature (WWF) - information on whales, dolphins, and porpoises
Photos:
- Red Sea Spinner Dolphin - Photo gallery
- PBS NOVA: Dolphins: Close Encounters Lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2008 tại Wayback Machine
- David's Dolphin Images Lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2006 tại Wayback Machine
- Images of Wild Dolphins in the Red Sea
- National Geographic Lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2008 tại Wayback Machine
- earthOCEAN Photos of Dolphins Lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2010 tại Wayback Machine









