![]() Tàu ngầm HMS Graph vào năm 1943
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-570 |
Đặt hàng | 24 tháng 10, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss, Hamburg |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 546 |
Đặt lườn | 21 tháng 5, 1940 |
Hạ thủy | 20 tháng 3, 1941 |
Nhập biên chế | 15 tháng 5, 1941 |
Tình trạng | Bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm được ngày 27 tháng 8, 1941 [1] |
![]() | |
Tên gọi | HMS Graph |
Trưng dụng | 27 tháng 8, 1941 |
Nhập biên chế | 5 tháng 10, 1941[2] |
Xuất biên chế | 21 tháng 6, 1943 |
Số phận |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 42 381 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: | Không |
Thành tích phục vụ (Hải quân Hoàng gia)[2] | |
Chỉ huy: |
|
U-570 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm được vào ngày 27 tháng 8, 1941, thu được những thông tin tình báo có giá trị.[1] Sau khi được nghiên cứu, con tàu được đưa trở lại phục vụ cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Graph (P715), và thực hiện được ba chuyến tuần tra, trở thành chiếc U-boat duy nhất phục vụ cho cả hai phía trong Thế Chiấn II. Nó ngừng hoạt động vào năm 1943, nhưng bị mắc cạn tại đảo Islay ngoài khơi bờ biển phía Tây Scotland khi được kéo đi tháo dỡ một năm sau đó.[2]
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
Chế tạo
U-570 được đặt hàng vào ngày 24 tháng 10, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg vào ngày 21 tháng 5, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 15 tháng 5, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Hans-Joachim Rahmlow.[1]
Lịch sử hoạt động
U-570
U-570 tiến hành một loạt các chuyến đi thử nghiệm và huấn luyện trong biển Baltic, rồi chuyển sang vùng biển Na Uy và thực hiện các chuyến đi huấn luyện ngắn và thực hành phóng ngư lôi. Con tàu đi đến căn cứ Lofjord tại Trondheimsfjord (13 kilômét (7 nmi) về phía Bắc Trondheim) vào ngày 25 tháng 7.[1][6]
Chuyến tuần tra
Vào cuối tháng 8, 1941, tình báo Hải quân Đức có được thông tin về việc tập trung một số lượng lớn tàu buôn Đồng Minh trong Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Iceland, nên Đô đốc Karl Dönitz huy động 16 tàu U-boat đi đến khu vực này.[7] U-570 nằm trong số đó, và nó khởi hành vào sáng ngày 24 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó mang theo tiếp liệu đủ dùng trong bốn tuần lễ, có nhiệm vụ sẽ hoạt động tại khu vực phía Nam Iceland rồi đi đến căn cứ U-boat tại La Pallice thuộc La Rochelle, bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng.[8]
Hạm trưởng của U-570, Đại úy Hans-Joachim Rahmlow, là một sĩ quan có kinh nghiệm, nhưng vừa mới chuyển sang chỉ huy U-boat sau khi từng là sĩ quan tác xạ và phòng thủ duyên hải.[9] Ông từng chỉ huy tàu ngầm U-58, nhưng chưa thực hiện chuyến tuần tra nào trong chiến tranh. Tương tự, Hạm phó thứ nhất cũng chỉ tham gia lực lượng U-boat được vài tháng, và Hạm phó thứ hai lại càng ít kinh nghiệm hơn khi mới vừa được bổ nhiệm sĩ quan. Sĩ quan phòng máy là người duy nhất trong số bốn sĩ quan từng trải qua tuần tra tác chiến. Các hạ sĩ quan trên tàu đã có nhiều năm phục vụ, nhưng đa số thủy thủ là những người mới gia nhập hải quân và chỉ có vài tháng huấn luyện trên tàu ngầm.[9] Tình trạng thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm không phải là cá biệt với riêng U-570 vào lúc đó. Việc thẩm vấn thủy thủ đoàn chiếc tàu ngầm U-510, bị đánh chìm ngay trong chuyến tuần tra đầu tiên, cho thấy 41 trong số 48 thành viên lần đầu tham gia một chuyến tuần tra trong chiến tranh.[10]
Bị chiếm
Trong phần lớn buổi sáng ngày 27 tháng 8, U-570 di chuyển ngầm dưới nước sau khi rời căn cứ được bốn ngày. Sáng sớm hôm đó, nó bị một máy bay ném bom Lockheed Hudson thuộc Liên đội 269 Không quân Hoàng gia Anh (RAF) xuất phát từ Kaldaðarnes, Iceland tấn công. Tuy nhiên giá mang bom của chiếc Hudson gặp trục trặc nên không thả được mìn sâu.[11] U-570 trồi lên mặt nước tại tọa độ 62°15′B 18°35′T / 62,25°B 18,583°T lúc khoảng 10 giờ 50 phút, và ngay sau đó bị một máy bay Hudson khác cùng thuộc Liên đội 269 phát hiện. Chiếc Hudson này, do đích thân chỉ huy liên đội James Thompson, bay đến hiện trường sau khi nhận tin tức phát hiện một tàu ngầm U-boat.[12] Đại úy Rahmlow, lúc đó có mặt trên cầu tàu, nghe thấy tiếng động cơ chiếc Hudson đang tiếp cận, nên ra lệnh lặn khẩn cấp. U-570 chưa chìm hoàn toàn xuống nước khi chiếc Hudson của Thompson đến nơi và thả bốn quả mìn sâu 250 lb (110 kg) tấn công.[13]
U-570 nhanh chóng trở lên mặt nước và có khoảng 10 thủy thủ xuất hiện trên boong. Chiếc Hudson tiếp tục tấn công bằng hỏa lực súng máy, nhưng ngừng bắn sau khi thủy thủ trên chiếc U-boat vẫy một lá cờ trắng ra dấu đầu hàng. Các tù binh Đức sau này khai báo rằng các vụ nổ của mìn sâu đã hầu ngư làm lật nghiêng con tàu, gây mất điện, hỏng thiết bị, rò rỉ nước và ô nhiễm không khí trên tàu. Các thủy thủ không có kinh nghiệm cho rằng sự ô nhiễm là do khí chlorine bị rò rỉ từ ắc-quy nhiễm nước biển, nên các thủy thủ phòng máy đã hoảng loạn chạy ra phía trước để tránh ô nhiễm. Lẽ ra việc phục hồi nguồn điện để cung cấp cho động cơ và chiếu sáng có thể giải quyết được vấn đề, nhưng không còn ai ở lại phòng máy để làm việc đó.[14] Chiếc tàu ngầm bất động dưới nước trong bóng tối, và Rahmlow tin rằng khí chlorine sẽ độc hại nếu ở lại dưới nước, nên quyết định trồi lên mặt biển. Hoàn cảnh biển động mạnh khiến các thủy thủ không thể vận hành các vũ khí phòng không trên boong, nên họ vẫy cờ trắng để ngăn một đợt tấn công khác bằng mìn sâu, mà không biết rằng chiếc Hudson đã thả hết số mìn sâu mà nó có.
Phần lớn thủy thủ của chiếc tàu ngầm đã ở trên boong tàu khi máy bay của Thompson lượn vòng chung quanh, giờ đây còn có thêm một chiếc Hudson thứ hai vốn đang trên đường từ Scotland đến Iceland nhưng đã tách khỏi lộ trình để đi đến trợ giúp.[Ghi chú 1] Một bức điện của Thompson yêu cầu trợ giúp đã huy động thêm được một thủy phi cơ Catalina PBY thuộc Liên đội 209 RAF xuất phát từ Reykjavík, Iceland;[Ghi chú 2][11] bay đến hiện trường ba giờ sau đó.[11] Thủy thủ đoàn Đức báo cáo tình huống về Bộ chỉ huy Tàu ngầm Đức, phá hủy máy vô tuyến, đập vỡ máy Enigma rồi ném các bộ phận cùng các bảng mật mã xuống biển.[15] Đô đốc Dönitz kể lại trong hồi ký của ông rằng ông đã ra lệnh cho các tàu U-boat khác trong khu vực đi đến trợ giúp cho U-570 sau khi nhận được báo cáo;[16] U-82 đã hồi đáp, nhưng máy bay tuần tra Đồng Minh đã ngăn trở U-82 có thể tiếp cận U-570.[14]

Bức điện của U-570 được gửi đi bằng bạch văn (không mã hóa) nên phía Anh đã chặn bắt được. Đô đốc Percy Noble, Tư lệnh Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây, lập tức ra lệnh cho nhiều tàu chiến nhanh chóng đi đến hiện trường.[14] Đến xế trưa, các chiếc Hudson buộc phải quay trở lại Iceland do đã cạn nhiên liệu.[Ghi chú 3] Chiếc Catalina, với khả năng tuần tra tầm xa, được lệnh canh chừng chiếc tàu ngầm cho đến khi tàu chiến Đồng Minh đi đến nơi. Nếu không có chiếc nào xuất hiện sau khi mặt trời lặn, chiếc máy bay sẽ ra lệnh cho thủy thủ U-570 bỏ tàu, rồi đánh chìm mục tiêu. Chiếc tàu đầu tiên đi đến hiện trường, tàu đánh cá vũ trang chống ngầm HMT Northern Chief, đi đến nơi lúc khoảng 22 giờ 00 sau khi được dẫn đường bởi pháo sáng thả từ chiếc Catalina. Sau đó chiếc thủy phi cơ quay trở về Iceland sau khi lượn vòng bên trên U-570 trong suốt 13 giờ.[14]
Các thủy thủ Đức tiếp tục ở lại bên trên U-570 suốt đêm; họ không tìm cách đánh chìm chiếc U-boat vì Northern Chief đã gửi tín hiệu cảnh báo sẽ nổ súng và không cứu vớt những người sống sót nếu họ làm như vậy. Hạm trưởng của Northern Chief được lệnh ngăn ngừa chiếc tàu ngầm bị đánh chìm bằng mọi cách.[14] Trong đêm có thêm năm tàu Đồng Minh đi đến hiện trường: tàu đánh cá vũ trang Kingston Agate, các tàu săn cá voi vũ trang HMS Wastwater và HMS Windermere, tàu khu trục Anh HMS Burwell, và tàu khu trục Canada HMCS Niagara.
Lúc bình minh, các bên bắt đầu trao đổi bằng tín hiệu đèn. U-570 liên tục yêu cầu được di tản khỏi tàu vì họ không thể tiếp tục ở lại trên tàu, nhưng phía Anh từ chối cho đến khi các thủy thủ Đức khắc phục được tình trạng ngập nước của chiếc U-boat, do lo sợ rằng phía Đức sẽ để mặc cho con tàu bị chìm sau khi họ được giải cứu. Tình hình càng thêm rắc rối khi một thủy phi cơ Northrop N-3PB thuộc Liên đội 330 Không quân Hoàng gia Na Uy xuất hiện.[17] Không biết rằng chiếc tàu ngầm đã đầu hàng, nó tấn công U-570 bằng nhiều quả bom nhỏ và bắn phá Northern Chief, vốn đã chống trả.[18] May mắn không có hư hại gì và Burwell ra lệnh cho chiếc máy bay rút lui qua vô tuyến.
Tình trạng thời tiết trở nên xấu hơn, nhiều nỗ lực nhằm nối một dây cáp kéo U-570 đêu thất bại. Cho rằng các thủy thủ Đức đã ngăn trở hoạt động này, hạm trưởng của Burwell S.R.J. Woods[19] ra lệnh bắn súng máy cảnh cáo, nhưng vô tình bắn trúng và làm bị thương nhẹ năm thủy thủ của U-570.[17] Sau khi gặp nhiều khó khăn, Đại úy H.B. Campbell cùng ba thủy thủ của Kingston Agate đi sang chiếc tàu ngầm bằng bè cứu sinh.[11][18] Sau cuộc tìm kiếm nhanh mà không thấy máy Enigma của chiếc U-boat, họ nối được một dây cáp để kéo rồi cho chuyển năm người bị thương cùng các sĩ quan của chiếc tàu ngầm sang chiếc Kingston Agate.[17] Các thủy thủ còn lại được đưa lên tàu khu trục HMCS Niagara, vào lúc này đã áp sát bên mạn U-570.[17]
Các con tàu bắt đầu di chuyển chậm về phía Iceland với U-570 được kéo đi, trong khi các máy bay Hudson và Catalina liên tục tuần tra trên không. Họ đi đến Þorlákshöfn vào sáng sớm ngày 29 tháng 8, nơi U-570 được cho mắc cạn bên bờ biển vì nó đã bị ngập nhiều nước vào bên trong tàu và có nguy cơ bị đắm.
Tham khảo
Ghi chú
- ^ Bộ sưu tập của Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc (Imperial War Museum) còn lưu giữ bản ghi âm phỏng vấn Đại úy Hugh Eccles, thành viên tổ bay chiếc Hudson.
- ^ Chiếc Catalina số hiệu AH553 do Đại úy Edward Jewiss điều khiển; xem; Conyers Nesbit (2008), tr. 74. Jewiss từng tham gia đánh chìm tàu ngầm U-452 hai ngày trước đó. Xem: Blair (1996), tr. 342.
- ^ Khi quay trở lại căn cứ Kaldaðarnes, chiếc Hudson của Thompson bị mất do gặp tiai nạn lúc hạ cánh, nhưng không ai trong đội bay bị thương đáng kể. Xem: Blair (1996)
Chú thích
- ^ a b c d e f g h i Helgason, Guðmundur. "The Type VIIC U-boat U-570". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b c Helgason, Guðmundur. "HMS Graph (P 715)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. "Type VIIC". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "War Patrols by German U-boat U-570". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ CB 4051 (1941), tr. 4.
- ^ Blair (1996), tr. 340.
- ^ CB 4051 (1941), tr. 5.
- ^ a b CB 4051 (1941), tr. 2.
- ^ Blair (1996), tr. 362.
- ^ a b c d Conyers Nesbit (2008), tr. 74.
- ^ Thomas, Andrew (ngày 24 tháng 5 năm 2001). "Icelandic Hunters – No 269 Squadron Royal Air Force" (PDF). Aviation News. St Leonards-on-Sea, East Sussex: HPC Publishing. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
- ^ CB 4051 (1941), tr. 6.
- ^ a b c d e Blair (1996), tr. 342.
- ^ CB 4051 (1941), tr. 7.
- ^ Sebag-Montefiore (2000), tr. 161.
- ^ a b c d Dunmore (2001), tr. 129.
- ^ a b Blair (1996), tr. 344.
- ^ Dunmore (2001), tr. 128.
Thư mục
- ADM 186/806—CB 4051 U 570, Interrogation of Crew, Intelligence Division Naval Staff, Admiralty, tháng 1 năm 1941, truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2017,
reproduced in full by uboatarchive.net
- ADM 239/358—CB 4318 Report on ex-German Submarine "U570" (HMS "Graph"), Intelligence Division Naval Staff, Admiralty, tháng 1 năm 1943, truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2017,
reproduced at uboatarchive.net
- Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. New York: Random House. ISBN 0-394-58839-8.
- Blair, Clay (1999). Hitler's U-Boat War: The Hunted, 1942-1945. Weidenfeld & Nicolson. ISBN 0-297-84077-0.
- Burt, Kendal; Leasor, James (2006). "Chapter 4". The One That Got Away. Pen & Sword Military. ISBN 1-84415-437-8.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). Quyển IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Compton-Hall, Richard (2004). Submarines at War 1939–45. Periscope Publishing Ltd. ISBN 1-904381-22-7.
- Conyers Nesbit, Roy (2008). Ultra Versus U-Boats: Enigma Decrypts in the National Archives. Pen & Sword Military. ISBN 978-1844158744.
- Cremer, Peter (1984). U333: Story of a U-boat Ace. The Bodley Head Ltd. ISBN 0-370-30545-0.
- Durham, Phil (1996). The Führer Led But We Overtook Him: The memoir of a Royal Navy submariner who served on Graph. Edinburgh: Pentland. ISBN 1-85821-365-7.
- Dunmore, Spencer (2001). In Great Waters: The Epic Story of the Battle of the Atlantic. Pimlico. ISBN 0-7126-6932-9.
- Friedman, Norman (1995). U.S. Submarines Through 1945: an Illustrated Design History. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-263-3.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. Quyển 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Bud, Robert; Gummett, Philip (2002). Cold War, Hot Science: Applied Research in Britain's Defence Laboratories, 1945–1990. NMSI Trading Ltd. ISBN 1-900747-47-2.
- Jessop, Kieth; Hanson, Neil (2001). Goldfinder. John Wiley and Sons. ISBN 0-471-40733-X.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Lincoln, Ashe (1961). Secret Naval Investigator. London: William Kimber and Co Ltd.
- Macintrie, Donnald (2004). U-Boat Killer: Fighting the U-Boats in the Battle of the Atlantic. Rigel Publications. ISBN 1-898799-78-4.
- Mallmann-Showell, Jak (2000). Enigma U-Boats. Ian Allan Publishing. ISBN 0-7110-2764-1.
- Mulligan, Timothy (2011). Neither Sharks Nor Wolves. Naval Institute Press. ISBN 978-1591145462.
- "Report On The German Submarine U-570 Class Captured By The British in August 1941". United States Navy, reproduced by uboatarchive.net. ngày 28 tháng 9 năm 1941. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2017.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
- Peterson, John (ngày 9 tháng 4 năm 2012). "From London to Lerwick: The final voyage of U-776". The Shetland Times. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2013.
- Sebag-Montefiore, Hugh (2000). Enigma: The Battle for the Code. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 0-297-84251-X.
- Terrell, Edward (1958). Admiralty Brief: the Story of Inventions that Contributed to Victory in the Battle of the Atlantic. London: Harrap. OCLC 504731245.
Liên kết ngoài
- Helgason, Guðmundur. "The Type VIIC boat U-570". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2025.
- Hofmann, Markus. "U 570". Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2025.
- Weisse Flagge, 269 Squadron RAF Website. A 1956 article from the German magazine Kristall, translated by Gerry Raffé. Includes an account of Bernhard Berndt's prison camp escape and Rahmlow's own description of the circumstances of the boat's surrender.
- U-570 269 Squadron RAF Website, Pictures of the U-570's capture and her beaching at ?orlákshöfn.