Ang Duong | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Campuchia | |||||||||
Vua Campuchia | |||||||||
Tại vị | 1841-1860 | ||||||||
Đăng quang | 1841 | ||||||||
Tiền nhiệm | Ang Mey | ||||||||
Kế nhiệm | Norodom I | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 1796 | ||||||||
Mất | 1860 | ||||||||
| |||||||||
Tước hiệu | quốc vương | ||||||||
Tước vị | Cao Miên quốc vương | ||||||||
Thân phụ | Ang Eng | ||||||||
Thân mẫu | Moneang Ros |

Preah Bat Ang Duong(1796-19 tháng 5 năm 1860) (trị vì 1841-1844, 1845-1860), (tiếng Khmer: ព្រះបាទ អង្គ ឌួង, phát âm tiếng Khmer: [ʔɑŋ duəŋ]), tên phiên âm Hán-Việt là Nặc Ông Đôn, Nặc Ong Đuông (匿螉𧑒) hay Nặc Ong Giun, Sá Ong Đuông (詫螉𧑒)[1], là vua của Campuchia. Danh hiệu chính thức của ông là Preah Raja Samdach Preah Hariraksha Rama Suriya Maha Isvara Adipati.
Thân thế
Ang Duong là con trai thứ của vua Ang Eng với cung phi người Thái là Ros hay Vara (qua đời khoảng năm 1869). Ang Eng lấy Ros làm thứ phi vào năm 1793 khi còn bị vua Xiêm giữ làm con tin ở Bangkok.
Vua Ang Duong là em trai cùng cha khác mẹ với vua Ang Chan II, và là chú ruột nữ vương Ang Mey. Ang Duong sống tại Xiêm cho tới năm 27 tuổi mới về đất Miên.
Tiểu sử
Cuối năm 1833, sau khi Lê Văn Khôi nổi dậy ở Gia Định, cử người sang cầu viện vua Xiêm Rama III. Vua Rama III đã cho chuẩn bị 5 cánh quân sẵn sàng tấn công vào Việt Nam (Chiến tranh Việt – Xiêm (1833-1834)).
Trong cánh quân do tướng Chao Phraya Bodin Decha chỉ huy có hai hoàng tử Cao Miên là Ang Em (Nặc Yêm) và Ang Duong đi cùng. Họ là những người đã chạy theo Xiêm cùng với anh là Ang Suguon (Nặc Nguyên) đến sống ở Băng Cốc vào năm 1809 (Ang Suguon sau đó chết ở Xiêm năm 1822). Cả ba đều là anh em của Nặc Chăn và cũng là chú của Ang Mey.
Năm 1841, vì thấy việc binh bị tốn kém, vua Thiệu Trị sai bỏ Trấn Tây thành, rút binh về An Giang. Ang Mey theo quan quân về Nam Kỳ. Biết tướng Trương Minh Giảng rút quân về nước, quân Xiêm đưa Nặc Ông Đôn về Chân Lạp lên ngôi vua và không bỏ lỡ cơ hội, Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) dẫn quân sang đánh phục thù (Chiến tranh Việt- Xiêm (1841-1845)).
Năm 1843, người Xiêm đưa Ang Duong (Nặc Ông Đôn) lên ngôi ở U Đông.
Ba năm sau (1844) quân Việt lại giao chiến với quân Xiêm (Chiến tranh Việt- Xiêm (1841-1845)). Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn vây hãm thành U Đông, đánh bại quân Xiêm La do Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) chỉ huy buộc người Xiêm phải giảng hòa. Hai bên đình chiến.
Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam.
Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang.
Quân đội Xiêm La do Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) chỉ huy cũng rút về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong.
Năm 1848, Tự Đức năm thứ 1, nước Xiêm làm lễ phong cho Ang Duong làm vua nước Cao Miên.[2] Ang Duong sau đó có cho thuyền đi nước ngoài và có mang theo các đạo trưởng Tây dương để chiêu dụ dân chúng.[3] Năm 1851, Ang Duong cho sứ sang xin 3 việc: trả lại kinh Phật; trả lại các xứ Ô Môn, Thất Sơn, Ba Xuyên, Kiên Giang; mượn đường sông Vĩnh Tế để ra biển thông thương. Vua Tự Đức bác bỏ.[4] Ang Duong sau đó mấy tháng lại xin cho dời lùi các đồn bảo Bình Di và Khánh An thì sẽ không nhắc chuyện đòi Thất Sơn, Ba Xuyên nữa. Vua Tự Đức cũng bác bỏ.[5]
Năm 1853, nhận thấy bị kiềm kẹp giữa Xiêm và Đại Nam, Ang Duong tìm cách liên lạc với nước ngoài. Ông cho gửi cống phẩm sang lãnh sự quán Pháp ở Singapore, nhờ chuyển cho vua Napoleon III. Có ý kiến cho rằng Ang Duong là người khởi sự cho thỏa thuận đưa Campuchia thành một xứ bảo hộ của Pháp[cần dẫn nguồn]. Triều đình Xiêm vô cùng tức giận khi phát hiện ra, ý định của Ang Duong không thành. Tuy nhiên có lẽ ông đã quyết định đúng do lúc đó Campuchia đang bị Xiêm đe dọa về mặt văn hóa phong tục và lãnh thổ. Dù bị Pháp cai trị nhưng dân Campuchia lại không mất bản sắc nhiều nếu ông quyết định ngược lại.
Người chính thức đề nghị Pháp giúp bảo hộ Cao Miên là con trai của Ang Duong sau này, vua Norodom I. Các điều ước quốc tế trao cho nước Pháp quyền bảo hộ Campuchia được ký ngày 05/07/1863 tại Sài Gòn với đại diện nước Pháp là Ernest Doudart de Lagrée [6]. Sự bảo hộ của nước Pháp dẫn tới việc sau đó các tỉnh phía tây được thu hồi về Campuchia, cũng như sự phân định biên giới rõ ràng với Việt Nam.
Ang Duong mất năm 1860, Ang Vody (Nặc Ong Lân) là con trưởng lên nối ngôi, lấy hiệu là Norodom I. Tuy nhiên sau đó, con trai thứ là Sivotha tranh quyền với Vody.
Các con khác của Ang Duong sau cũng làm vua là vua Sisowath (1840-1927). Norodom I là ông cố nội, Sisowath là ông cố ngoại của vua Sihanouk (1922-2012),.
Gia phổ Miên triều
Gia phổ Miên triều | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Tham khảo
- ^ Tên của vị vua này là Duong, còn Ang là từ để chỉ vua chúa. Sử nhà Nguyễn (Đại Nam thực lục) và các sách của quan nhà Nguyễn (Doãn Uẩn) còn gọi Ang Duong là: Sá Ong Đuông, Sá Ong Giun, Nặc Đôn, Sá Ông Đon. Chữ Duong được ghi bằng chữ 𧑒, có âm Nôm là Giun, Dun (con giun) hoặc Đuông (con đuông dừa). Cho nên, phiên âm chữ 𧑒 thành Đuông hợp lý hơn là Giun. Trong khi đó, Thạch Duong (Nguyễn Văn Tồn - Thống chế Điều Bát), người Khmer làm quan triều Nguyễn, cũng tên là Duong, được gọi là Duồng, Duông hoặc Dung.
- ^ Mậu Thân, Tự Đức năm thứ nhất [1848], ... Đầu mục nước Xiêm là Phi Nhã Bích Vị Sai dẫn đem hơn 100 người Xiêm tới Ô Đông phong cho Sá Ong Đuông 詫螉𧑒 [Ang Duong] làm vua nước Cao Man 高蠻 [nguyên văn là Cao Man, nxb Giáo Dục dịch thành Cao Miên]. (Nước Cao Miên nguyên là đất Lục Chân Lạp 陸眞臘 từ trước vẫn là phiên bang của nước ta. Đến trung gian, phiên vương nước ấy là Nặc Ong Chăn [Ang Chan II] thường bị nước Xiêm La lấn áp, chạy sang nương nhờ nước ta. Ta nhân đem quân đánh tan quân Xiêm, đưa Chăn về nước. Đến khi Chăn chết, cho con gái là Ngọc Vân [Ang Mey] nối ngôi. Ngọc Vân không thể coi được việc nước, bèn phong Ngọc Vân làm quận chúa Cao Miên, và sai đại thần là Trương Minh Giảng ở lại trấn trị đất ấy. Quan Phiên lại xin đổi thổ quan làm lưu quan [quan Kinh bổ đến] nhân đặt tên nước ấy là Trấn Tây thành, bèn đổi phong Ngọc Vân làm Mỹ Lâm quận chúa. Năm Minh Mệnh thứ 21, người Miên làm phản cùng người Xiêm nương tựa nhau, tự làm loạn. Năm Thiệu Trị thứ 5, sai quân đến đánh, đến năm thứ 7 mới yên. Khi ấy em Chăn là Sá Ong Đuông đem bộ thuộc đầu hàng, lập tức vâng ơn chuẩn cho dựng lại quốc hiệu, giả cả đất đai và nhân dân, phong Ong Đuông làm vua nước ấy, lại phong cho Ngọc Vân làm quận chúa nước ấy như trước, cho theo dâng chức cống như cũ. Nhưng vì tình người Miên hoảng hốt, còn bị người Xiêm làm mê hoặc lại chịu chức phong của Xiêm. Triều đình cũng chỉ ràng buộc qua thôi, nên không hỏi đến nữa). Vua nước Cao Miên là Sá Ong Đuông 詫螉𧑒 [Ang Duong] sai sứ đem các phẩm vật làm lễ tiến hương lễ chúc mừng và lễ cống hằng năm. (Năm ấy chuẩn cho nhận phẩm vật về 2 lễ tiến hương và tiến cống thôi, còn phầm vật về lễ khánh hạ thì cho miễn, nhưng đều chuẩn cho hành lễ).
- ^ Đệ tứ kỷ - quyển III, Thực lục về Dực tông anh hoàng đế, Mậu Thân, Tự Đức, năm thứ nhất [1848], ... Tháng 11, Tuần phủ Hà Tiên là Nguyễn Bá Nghi dâng tập tâu nói về việc dò hỏi tình hình ngoài biên và nghĩ xin cho xét hỏi kiểm soát. (Vua nước Cao Miên uỷ cho thuyền đi Na Châu buôn bán các hàng, đem về bọn đạo trưởng bọn theo đạo Gia tô người Tây dương để chiêu dụ dân ta ngầm hỏi về tình hình hư thực của nước ta. Xin do 6 tỉnh Nam Kỳ đều ra lệnh cho trong hạt phải phòng kiểm và đem những dân thuyền nào đi sang cõi Man để buôn bán, đều kiểm xét kỹ và bắt về trị tội).
- ^ Tân Hợi, Tự Đức năm thứ 4 [1851] (nước Thanh, Hàm phong năm thứ nhất), mùa xuân, tháng giêng, Vua nước Cao Man 高蠻 [nguyên văn là Cao Man, nxb Giáo Dục dịch thành Cao Miên] là Sá Ong Đuông 詫螉𧑒 [Ang Duong] sai người đệ tờ biểu dâng đồ cống, do Tổng đốc Cao Hữu Bằng xét chữa. Lại xin trả lại kinh Phật của nước ấy, (năm Minh Mệnh thứ 21, tỉnh Vĩnh Long tra xét niêm phong hàng hoá ở thuyền của tên nghịch Yểm [Ang Em ], trong đó có 8 tập kinh Phật của người nước Xiêm, giao cho chùa Giác Hoàng giữ); và trả về các xứ Ô Môn, Thất Sơn, Ba Xuyên, Kiên Giang (nguyên trước là đất nước Cao Miên, khoảng năm Minh Mệnh, dân Man nước ấy làm loạn giết hại dân Kinh, quân ta đến dẹp được yên, thì từ đấy những xứ ấy đều về ta cả) ; và mượn đường sông Vĩnh Tế để ra biển (thông thương). Vua cho là không hợp lý, sai Hữu Bằng trù nghĩ làm cho ổn thoả, khiến cho nước kia tâm phục.
- ^ Đệ tứ kỷ - quyển VII - 7, Thực lục về Dực tông anh hoàng đế, Tân Hợi, Tự Đức năm thứ 4 [1851], mùa thu, tháng 7, Tổng đốc An - Hà là Cao Hữu Bằng tâu nói : Quốc vương Cao Miên là Sá Ong Đuông uỷ cho thổ mục đến tỉnh đưa giấy xin dời lùi 2 bảo Bình Di, Khánh An. Lại nói : Phái nhân ngồi thu thuế thuyền ở đấy, thổ dân các man đi lại không tiện, vả lại lấn quan xứ Kha Bát thuộc cõi nước ấy. Xin châm chước miễn thuế cho, để được thông thương thì cùng yên lâu dài, không dám lại nói đến việc Thất Sơn, phủ Ba Xuyên nữa. Tức thì đã hiểu bảo các lẽ ngay ở trước mặt : (Khi trước đặt ra 2 đồn này, là để xét kẻ gian và chia địa giới. Chỗ đó đều thuộc địa phận dân Kinh, nguyên không lấn qua cõi đất nước ấy. Vả lại ngồi thu thuế cửa tuần là thu những thuyền buôn của 6 tỉnh và người ở nước Thanh, người Thổ từ thành Nam Vang lại mà thôi ; còn xứ Kha Bát ở bảo Bình Di, vẫn không thu thuế. Nên đem ý ấy nói cho Quốc vương biết). Lại phái Ngô Thế Chu đưa thư đến nói cho biết. Duy tình người Miên bất thường, đã sức cho các đồn bảo ven biên giới phòng bị rồi. Vua nói : Dời lùi đồn bảo, cố nhiên là vô lý, há nên chiều lòng mà theo. Nhưng nên nghiêm sức cho viên biền ngồi thu, chớ cho thổ dân là ngu dại dễ lừa, mà tạ sự bức bách quấy nhiễu, sinh ra mối tệ. Ngươi là tỉnh thần lại nghĩ làm tờ tư do viên Kinh lược duyệt lại, trách hỏi Man vương lấy những đại ý về nghĩa phiên thần và ơn vun giồng, xem Man vương kia đáp lại thế nào, tuỳ cơ châm chước mà làm.
- ^ Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử lược. Phần V - Cận Kim Thời Đại. "7. Việc Bảo Hộ Cao Miên."
- Justin Corfield, The History of Cambodia