

Bắc 54, hoặc "Bắc Kỳ 54", là cụm từ nói về những người miền Bắc di cư vào miền Nam Việt Nam dưới vĩ tuyến 17 vào năm 1954 và 1955. Họ rời khỏi vùng do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý để vào vùng do Quốc gia Việt Nam quản lý sau ngày ký kết Hiệp định Genève năm 1954.
Chiến dịch Con đường đến tự do

Chiến dịch Con đường đến tự do là một sáng kiến của hải quân Hoa Kỳ và quân đội Pháp để di chuyển các thường dân Việt Nam muốn di cư đến nửa phía Nam của Việt Nam từ miền Bắc, chủ yếu bằng tàu thuyền hoặc máy bay, theo hiệp định Genève năm 1954. Tạo ra thời kỳ 300 ngày mà mọi người có thể di cư tự do giữa miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam trước khi vĩ tuyến 17 bị phong tỏa vào ngày 18 tháng 5 năm 1955. Người Bắc 54 đã di cư vào miền Nam bằng chiến dịch con đường đến tự do với con số ước lượng từ 800.000 người đến gần 1 triệu người năm 1955.[1] Thêm 109.000 người di cư về phía Nam bằng phương tiện riêng của họ, một số ít di cư sau khoảng thời gian 300 ngày (ví dụ như sau cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An năm 1956,...). Những người tự di cư bằng cách đi bộ xuyên qua Lào, lên tàu đánh cá địa phương sau khi lấy được hoặc đi vào tỉnh Quảng Bình để bơi qua dòng sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17. Phần lớn người di cư có nguồn gốc từ đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Nam Định, một số từ Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và số ít từ các tỉnh trung du, miền núi Bắc Bộ.
Theo các tài liệu của Mỹ, trong thời gian này Edward Lansdale, chuyên gia tình báo Mỹ hoạt động tại miền Bắc Việt Nam, có nhiệm vụ làm suy yếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi cách có thể.[2][3] Lansdale và nhóm của ông đã thực hiện một chiến dịch tuyên truyền miêu tả rằng các điều kiện sắp tới dưới chính quyền Việt Minh sẽ ác nghiệt hết mức. Những khẩu hiệu như "Chúa đã vào Nam", "Đức Mẹ đã rời miền Bắc" cũng được cho là do nhóm Lansdale đặt ra. Việt Minh gọi mỉa mai cuộc di cư là "theo Chúa vào Nam".[4] Nhưng một nghiên cứu cho thấy hầu như không ai trong số những người được phỏng vấn từng thấy truyền đơn, áp phích hay tài liệu nào kêu gọi di cư vào Nam. Họ ra đi vì tác động của cha xứ, những câu chuyện truyền miệng, hoặc vì lý do cá nhân chứ không phải vì chịu tác động của các truyền đơn tuyên truyền chống cộng của CIA.[5]
Chính bản thân Edward Lansdale cho rằng chiến dịch tâm lý của mình ít có ảnh hưởng tới dân chúng:
- "Người ta không bật khỏi gốc rễ mà rời bỏ quê hương chỉ vì những khẩu hiệu xuông. Họ thật sự lo sợ những gì có thể xảy đến với mình, và cảm xúc ấy mạnh mẽ đến mức vượt qua được sự gắn bó với đất đai, nhà cửa và mồ mả tổ tiên. Vì vậy, ý định ấy phần lớn xuất phát từ họ, còn chúng tôi chủ yếu chỉ làm cho việc di chuyển trở nên khả thi."[5]
Hơn 200.000 người Phật giáo di cư vào Nam cùng với các tăng sĩ chính.[6] Cả một phong trào trí thức Phật giáo di dời vào miền Nam.[7] Hàng chục nghìn người thuộc các sắc tộc thiểu số cũng di chuyển vào Nam.
Định cư


Nhiều người bắc 54 đã định cư ở các khu vực ven biển như Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận (nơi nhiều người làm nghề đánh bắt cá), Đồng Nai (nơi nhiều người làm nghề trồng trọt và chăn nuôi), hoặc tại các thành phố như Sài Gòn hoặc Biên Hòa. Biên Hòa sau này sẽ trở thành địa điểm chống cự quy mô nhỏ với chính quyền mới trong những tháng đầu sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, vì sự tập trung cao độ của những người Bắc 54 chống cộng sản và con cháu của họ đã di cư vào miền Nam Việt Nam năm 1954, 1955.
Người Bắc di cư vì nhiều lý do chính trị, kinh tế, và tôn giáo. Trong số người Công giáo, có những người quyết định di cư không phải vì lý do tôn giáo.[8] Thành phần di cư Công giáo từ miền Bắc thực tế đã mang đến nhiều thách thức phức tạp cho Giáo hội Công giáo tại miền Nam; thủ tướng Ngô Đình Diệm cũng không tái định cư người Công giáo miền Bắc ở quanh Sài Gòn như một chính sách chiến lược có chủ đích.[9] Người Công giáo Việt Nam không phải là một khối đồng nhất,[10] và họ cũng không thống nhất về lập trường chính trị.[11] Do đó, việc đồng nhất "người tị nạn Công giáo với tất cả người Công giáo, với tất cả người tị nạn, hoặc với những người ủng hộ trung thành Ngô Đình Diệm" là một huyền thoại.[12] Việc tái định cư người tị nạn Công giáo một cách phân tán cho thấy rằng việc là người tị nạn hay là người Công giáo không đảm bảo nhận được sự ưu ái từ tổng thống.[13] Giáo hội ở miền Nam phải đối phó với những thách thức gắn liền với việc đón một đoàn người Công giáo nhập cư có quy mô còn lớn hơn cả bản thân giáo hội miền Nam. Theo một thống kê, vào năm 1954 cả Việt Nam có hơn 1,9 triệu người Công giáo; trong đó hơn 1,4 triệu người ở miền Bắc, và khoảng 800.000 người trong số đó di cư vào Nam. Giáo hội miền Nam còn gặp khó khăn khi văn hóa của các tín đồ hai miền khác nhau. Ngoài những khó khăn thì Giáo hội có một thuận lợi là tất cả tín hữu đều theo một hệ thống giáo lý và nghi lễ.[14]
Những người Bắc 54 nổi tiếng

Đây là danh sách chưa đầy đủ những người nổi tiếng có quê hương phía Bắc vĩ tuyến 17 từ Quảng Bình trở ra, một số người trong danh sách này di cư từ trước năm 1954:
Bắc Ninh
Phạm vi tỉnh Bắc Ninh ngày nay còn bao gồm tỉnh cũ Bắc Giang.
- Bàng Bá Lân (quê Bắc Giang), nhà thơ, nhà giáo
- Nam Lộc, nhạc sĩ, dẫn chương trình
- Ngô Gia Hy, bác sĩ
- Nguyễn Đăng Thục, nhà giáo
- Nguyễn Xuân Oánh, chính khách VNCH và CHXHCNVN
- Nguyễn Văn Hiếu (trung tướng)
- Nguyễn Văn Nhuệ
- Phạm Văn Đổng
- Phan Trọng Chinh
- Trịnh Xuân Thuận
- Vương Văn Bắc
Cao Bằng
Hà Nội
Phạm vi thành phố Hà Nội như ngày nay còn gồm cả các tỉnh cũ Hà Đông, Sơn Tây; phần tả ngạn sông Hồng của Hà Nội là một phần của các tỉnh cũ Phúc Yên và Bắc Ninh.
- Chung Quân (nhạc sĩ)
- Cung Đình Quỳ, chính khách
- Doãn Quốc Sỹ, nhà văn
- Duy Trác, nhạc sĩ
- Đào Sĩ Chu, họa sĩ
- Đặng Tuyết Mai, Đệ nhị phu nhân Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa
- Đinh Hùng
- Đoàn Viết Hoạt
- Đỗ Quang Giai, chính khách
- Đức Huy (quê Sơn Tây), nhạc sĩ
- Dương Nghiễm Mậu, nhà văn
- Dương Thiệu Tước, nhạc sĩ
- Hà Huyền Chi, nhà thơ
- Hoàng Cơ Bình, nha sĩ, chính khách
- Hoàng Cơ Minh, phó đề đốc hải quân Việt Nam Cộng hòa
- Hoàng Cơ Thụy, luật sư, chính khách
- Hùng Lân, nhạc sĩ
- Jo Marcel, nghệ sĩ
- Khánh Ly, ca sĩ
- Kiều Chinh, diễn viên
- Kim Chung (nghệ sĩ)
- Lê Nguyên Vỹ (quê Sơn Tây), chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
- Lê Quang Luật, luật sư, chính khách
- Lê Quỳnh
- Lê Sáng, võ sư Vovinam
- Lệ Thanh (ca sĩ)
- Lê Thương
- Lê Uyên
- Minh Tuyền, nhà thơ
- Nghiêm Đằng, giáo sư
- Nghiêm Mỹ, chính khách
- Nghiêm Thẩm, nhà khảo cổ
- Nguyễn Cao Kỳ (quê Sơn Tây), phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa
- Nguyễn Công Viên, chính khách
- Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu
- Nguyễn Đình Hòa, giáo sư
- Nguyễn Đình Toàn (quê Gia Lâm, Bắc Ninh), nhạc sĩ, nhà văn
- Nguyễn Đức Quang, nhạc sĩ
- Nguyễn Gia Trí, họa sĩ
- Nguyễn Hiến Lê, dịch giả, nhà văn
- Nguyễn Hữu Chì (quê Sơn Tây), chính khách
- Nguyễn Hữu Trí (đảng Đại Việt)
- Nguyễn Lộc (võ sư) (quê Sơn Tây), người sáng lập Vovinam
- Ngọc Bích (nhạc sĩ)
- Nguyễn Ngọc Bích (giáo sư)
- Nguyễn Ngọc Ngạn (quê Sơn Tây), nhà văn, dẫn chương trình
- Nguyễn Phú Đức (quê Sơn Tây), chính khách
- Nguyễn Quốc Quân, tiến sĩ, nhà hoạt động
- Nguyễn Trọng Bảo, chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa
- Nguyên Sa (Hà Đông)
- Nghiêm Xuân Thiện, chính khách
- Nhật Bằng, nhạc sĩ
- Phạm Duy, nhạc sĩ
- Phạm Đình Chương, nhạc sĩ
- Phạm Trọng Cầu, nhạc sĩ
- Phạm Văn Phú (quê Hà Đông), thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
- Tạ Tỵ, họa sĩ
- Thái Thanh, ca sĩ
- Thẩm Oánh, nhạc sĩ
- Trần Chánh Thành, chính khách
- Trần Kim Phượng, nhà ngoại giao
- Trần Trung Dung, bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa
- Trần Văn Khắc, thủ lĩnh phong trào hướng đạo
- Trần Văn Tuyên (quê Hà Đông, sinh tại Tuyên Quang), chính khách
- Trường Kỳ, nhạc sĩ
- Văn Phụng, nhạc sĩ
- Vũ Đình Chí
- Vũ Khắc Khoan, nhà văn, biên kịch
- Vũ Thành, nhạc sĩ
- Vũ Văn Mẫu, chính khách
- Xuân Tiên, nhạc sĩ
- Y Vân, nhạc sĩ
- Y Vũ, nhạc sĩ
Hải Phòng
Phạm vi thành phố Hải Phòng ngày nay còn bao gồm các tỉnh cũ Kiến An và Hải Dương.
- Canh Thân (nhạc sĩ)
- Châu Hà
- Giang Tử
- Giuse Nguyễn Hữu Triết, linh mục, nhà sưu tập cổ vật
- Hoài An (nhạc sĩ, sinh 1929)
- Hoàng Trọng
- Hùng Cường (nghệ sĩ)
- Lệ Thu, ca sĩ
- Lữ Liên, nhạc sĩ
- Ngô Thụy Miên, nhạc sĩ
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Tường Tam (quê Hải Dương), nhà văn, nhà cách mạng
- Phạm Thế Ngũ
- Phạm Thiên Thư
- Robert Hải
- Thẩm Thúy Hằng, diễn viên
- Thiếu Sơn, nhà văn
- Trần Dạ Từ
- Trần Quang Tứ
Phú Thọ
Phạm vi tỉnh Phú Thọ ngày nay còn gồm đa số phạm vi ba tỉnh cũ Hòa Bình, Vĩnh Yên, và Phúc Yên.
- Piô Ngô Phúc Hậu
- Vũ Hồng Khanh, nhà cách mạng, chính khách
Yên Bái
Tỉnh cũ Yên Bái nay thuộc tỉnh Lào Cai.
- Nguyễn Xuân Vinh, đại tá, nhà khoa học không gian
Ninh Bình
Phạm vi tỉnh Ninh Bình như ngày nay được hợp thành từ các tỉnh cũ Ninh Bình, Nam Định, và Hà Nam.
- Bùi Diễm (quê Hà Nam), chính khách
- Du Tử Lê, nhà thơ
- Đa Minh Lương Kim Định, linh mục, nhà triết học
- Giuse Ngô Quang Kiệt, tổng giám mục
- Giuse Nguyễn Năng, tổng giám mục
- Hải Linh, nhạc sĩ
- Kim Tước, ca sĩ
- Mai Thảo, nhà văn
- Nguyễn Công Viên, chính khách
- Nguyễn Quốc Định (quê Nam Định), chính khách
- Nguyễn Xuân Chữ (quê Nam Định), bác sĩ, chính khách
- Phạm Cao Củng, nhà văn
- Phạm Thúy Hoan, nhạc sĩ, nhà giáo
- Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, giám mục
- Thích Tâm Châu, hòa thượng
- Trần Đông A (quê Nam Định), bác sĩ
- Trần Tuấn Khải (quê Nam Định), nhà thơ, nhà văn
- Trần Văn Đỗ (sinh Hà Nam, quê Nam Kỳ), chính khách
- Trường Sa, nhạc sĩ
- Tuấn Khanh (nhạc sĩ sinh 1933)
- Vũ Hoàng Chương, nhà thơ
- Vũ Ngọc Hoàn (quê Nam Định, sinh tại Lạng Sơn)
- Vũ Quốc Thông (quê Nam Định), giáo sư, chính khách
- Vũ Quốc Thúc (quê Nam Định), giáo sư, chính khách
- Vũ Thành An (quê Nam Định), nhạc sĩ
Hưng Yên
Phạm vi tỉnh Hưng Yên ngày nay còn bao gồm tỉnh cũ Thái Bình.
- Anh Thy, nhạc sĩ
- Duyên Anh, nhà văn, nhà báo
- Gioakim Lương Hoàng Kim, linh mục, nhạc sĩ
- Nguyễn Đình Thuần, chính khách
- Nguyễn Văn Ngải, chính khách
- Quách Thị Trang, nhà hoạt động
- Thích Quảng Độ, hòa thượng
- Trương Tiến Đạt, luật sư, chính khách
- Vũ Văn Hiền (chính khách), luật sư
Quảng Ninh
Phạm vi tỉnh Quảng Ninh như ngày nay được hợp thành từ các tỉnh cũ Quảng Yên và Hải Ninh.
- Chương Dzềnh Quay, chuẩn tướng
- Lý Đức Quân, chuẩn tướng
- Ngân Giang, nhạc sĩ
- Ngọc Minh, ca sĩ
- Nguyễn Hữu Tần, chuẩn tướng
- Nguyễn Lạc Hóa, linh mục
- Phan Phụng Tiên, chuẩn tướng
- Vi Huyền Đắc, nhà văn, nhà giáo
- Vòng A Sáng, đại tá
Thanh Hóa
- Anh Bằng, nhạc sĩ
- Giuse Nguyễn Chí Linh, tổng giám mục
- Hà Thượng Nhân, nhà thơ, viên chức
- Hoàng Văn Chí, học giả
- Lê Ngọc Chấn, chính khách
- Nguyễn Tiến Hưng, tiến sĩ kinh tế, viên chức, cố vấn
- Nhật Ngân, nhạc sĩ
- Thanh Lãng (linh mục), nhà nghiên cứu
- Trần Kim Tuyến, chính khách
Nghệ An
- Đặng Văn Sung, bác sĩ, chính khách
- Hoàng Nguyên, nhạc sĩ
- Phaolô Nguyễn Thái Hợp, giám mục
- Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, giám mục
- Phạm Văn Huyến, bác sĩ thú y, chính khách
- Phan Quang Đán, bác sĩ, chính khách
- Nguyễn Phương Thiệp, chính khách
- Thanh Lan, ca sĩ, diễn viên
- Thanh Tâm Tuyền, nhà văn, nhà thơ
Hà Tĩnh
- Gioan Baotixita Nguyễn Đình Thi, linh mục
- Hoàng Bá Vinh, chính khách
- Ngô Thế Linh, đại tá
- Phaolô Cao Văn Luận, giáo sư, linh mục
- Phan Huy Quát, thủ tướng Việt Nam Cộng hòa
- Phan Quang Đông, viên chức
- Phêrô Trương Bá Cần, linh mục
- Thái Can, bác sĩ, nhà thơ
- Trần Đình Trường, doanh nhân
Quảng Bình
Tỉnh cũ Quảng Bình nay thuộc tỉnh Quảng Trị.
- Châu Đình An, nhạc sĩ
- Đinh Xuân Quảng, chính trị gia
- Mai Hữu Xuân, chính khách
- Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Xem thêm
Chú thích
- ^ Lindholm, Richard (1959). Viet-nam, The First Five Years: An International Symposium. Michigan State University Press. tr. 49. ISBN 1258173123.
- ^ Nguyên văn: "...his task was to weaken Ho Chi Minh's Democratic Republic of Viet Nam through any means available..."; Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, ABC-CLIO, 1998, tr. 220.
- ^ Neel Sheehan, A Bright Shining Lie, 1988, tr. 137.
- ^ "70 năm cuộc di cư 1954: người Công giáo ra đi rồi lại hướng về quê cũ!". Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b Hansen (2009).
- ^ Goscha, Christopher (2016). Vietnam: A New History. Basic Books. tr. 280. ISBN 9780465094370.
- ^ The Venerable Giac Duc (1996). "Buddhists and Catholics, the Beginning". In David Chanoff & Doan Van Toai (eds.) ‘Vietnam’: A Portrait of Its People at War. I.B. Tauris. page 39.
- ^ Hansen (2009), tr. 184.
- ^ Hansen (2009), tr. 176.
- ^ Trân (2013), tr. 447.
- ^ Nguyen-Marshall (2009).
- ^ Nguyen (2016), tr. 210–211.
- ^ Nguyen (2016), tr. 213.
- ^ Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam (Calgary: Veritas Press, 1998), tập 3, trang 214
Tham khảo
- Hansen, Peter (2009). "Bắc Di Cư: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959". Journal of Vietnamese Studies. 4 (3): 173–211. doi:10.1525/vs.2009.4.3.173.
- Nguyen, Phi-Vân (2016). "Fighting the First Indochina War Again? Catholic Refugees in South Vietnam, 1954–59". Sojourn: Journal of Social Issues in Southeast Asia. 31 (1): 207–246. doi:10.1355/sj31-1f.
- Nguyen, Phi-Vân (2018). "A Secular State for a Religious Nation: The Republic of Vietnam and Religious Nationalism, 1946–1963". The Journal of Asian Studies. 77 (3): 741–771. doi:10.1017/S0021911818000505.
- Nguyen, Phi-Vân (2021). "Victims of Atheist Persecution: Transnational Catholic Solidarity and Refugee Protection in Cold War Asia". Trong Meyer, Birgit; Veer, Peter van der (biên tập). Refugees and Religion: Ethnographic Studies of Global Trajectories. Bloomsbury. tr. 51–67. ISBN 9781350167162.
- Nguyen, Phi-Van (2024). A Displaced Nation: The 1954 Evacuation and Its Political Impact on the Vietnam Wars. Cornell University Press. ISBN 9781501778612.
- Nguyen-Marshall, Van (2009). "Tools of Empire? Vietnamese Catholics in South Vietnam". Journal of the Canadian Historical Association. 20 (2): 138–159. doi:10.7202/044402ar.
- Picard, Jason A. (2016). ""Fertile Lands Await": The Promise and Pitfalls of Directed Resettlement, 1954–1958". Journal of Vietnamese Studies. 11 (3–4): 58–102. doi:10.1525/jvs.2016.11.3-4.58.
- Trân, Thi Liên (2005). "The Catholic Question in North Vietnam: From Polish Sources, 1954–56". Cold War History. 5 (4). London: Routledge: 427–449. doi:10.1080/14682740500284747. S2CID 154280435.
- Trân, Thi Liên (2013). "The Challenge for Peace within South Vietnam's Catholic Community: A History of Peace Activism". Peace & Change: A Journal of Peace Research. 38 (4). Wiley-Blackwell: 446–473. doi:10.1111/pech.12040.
Liên kết ngoài
- "Từ Di cư đến Tỵ nạn 1954, 1975, 2010"
- "60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954", Trùng Dương (2014)
- "‘Di cư 1954’: ‘Nỗi lòng người đi’ vẫn như ngày nào", Đằng-Giao (2024)








