Cách mạng Mông Cổ 1921 | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Cách mạng năm 1917–23 | ||||||||
![]() Hàng sau từ trái: ?, ?, Rinchingiin Elbegdorj, Soliin Danzan, Damdin Sükhbaatar, Ajvaagiin Danzan, Boris Shumyatsky, ?, Dogsomyn Bodoo | ||||||||
| ||||||||
Tham chiến | ||||||||
Được hỗ trợ bởi:![]() |
![]() |
Được hỗ trợ bởi:![]() | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | ||||||||
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch sử Mông Cổ |
---|
![]() |
Cách mạng Mông Cổ 1921 (tiếng Mông Cổ: Ардын хувьсгал), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị mà qua đó những người cách mạng Mông Cổ, với sự hỗ trợ của Hồng quân Liên Xô, đã trục xuất Bạch vệ Nga khỏi đất nước và thành lập Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ vào năm 1924. Mặc dù trên danh nghĩa là độc lập, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ là một quốc gia vệ tinh của Liên Xô cho đến cuộc cách mạng Mông Cổ lần thứ ba vào tháng 1 năm 1990. Cuộc cách mạng này cũng chấm dứt sự chiếm đóng Mông Cổ của chính quyền Bắc Dương của Trung Quốc, bắt đầu từ năm 1919.
Mở đầu
Cách mạng Ngoại Mông 1911
Trong khoảng ba thế kỷ, triều đại nhà Thanh đã thực thi – mặc dù thành công không đồng đều – chính sách phân biệt các dân tộc không phải người Hán ở biên giới với người Hán. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19, Trung Quốc phải đối mặt với viễn cảnh bị chia cắt giữa các cường quốc phương Tây và Nhật Bản, mỗi bên đều cạnh tranh giành phạm vi ảnh hưởng riêng trong nước. Ở biên giới phía bắc, triều đình nhà Thanh coi Đế quốc Nga là mối đe dọa lớn nhất đối với toàn vẹn lãnh thổ của mình.[cần dẫn nguồn] Đáp lại, chính quyền nhà Thanh đã áp dụng một chính sách khác, "Chính quyền mới" hay "Tân Chính" (Xin zheng), kêu gọi Hán hóa Mông Cổ thông qua việc thực dân hóa người Hán, khai thác tài nguyên thiên nhiên của Mông Cổ (khai thác mỏ, gỗ, đánh bắt cá), huấn luyện quân sự và giáo dục.[3]
Nhiều người Mông Cổ coi "Tân Chính" là mối đe dọa lớn đối với lối sống truyền thống của họ, điều đã được đồng ý duy trì khi họ công nhận quyền lực của các hoàng đế nhà Thanh và bắt đầu tìm kiếm độc lập. Vào tháng 7 năm 1911, một nhóm quý tộc Khalkha đã thuyết phục Jebtsundamba Khutuktu, người đứng đầu Phật giáo Mông Cổ, rằng Mông Cổ phải tuyên bố độc lập khỏi triều đại nhà Thanh. Họ đồng ý cử một phái đoàn nhỏ đến Nga để xin sự hỗ trợ của Nga trong việc này.
Vào tháng 10 năm 1911, Cách mạng Tân Hợi nổ ra, với lần lượt các tỉnh tuyên bố độc lập khỏi chính quyền nhà Thanh. Ngày 1 tháng 12 năm 1911, Ngoại Mông tuyên bố độc lập và thiết lập một chế độ thần quyền dưới quyền Khutuktu. Vào ngày 29 tháng 12, ông được phong làm Bogd Khan (Great Khan, hay Hoàng Đế) của Mongolia.[4] Sự kiện này mở ra kỷ nguyên Bogd Khaan kéo dài cho đến năm 1919.
Bogd Khan

Chính quyền Mông Cổ mới là sự kết hợp giữa thần quyền Phật giáo, phong tục của triều đình nhà Thanh và các hoạt động chính trị phương Tây thế kỷ 20. Bogd Khan nắm giữ những quyền lực tương tự - cả tượng trưng lẫn thực tế - của các hoàng đế nhà Thanh trong quá khứ. Ông đặt cho mình một tước hiệu là, "Elevated by the Many"; giới quý tộc Mông Cổ giờ đây phải cống nạp cho ông thay vì hoàng đế nhà Thanh; và Bogd Khan nắm giữ quyền phong tước vị và ấn tín cho giới quý tộc. Nhà nước mới này cũng phản ánh mong muốn của người Mông Cổ trong việc tái thiết đất nước thành một nhà nước hiện đại - họ thành lập một quốc hội gồm hai viện, một chính phủ với năm bộ và một quân đội quốc gia.[cần dẫn nguồn]
Giới tăng lữ Phật giáo đã khám phá ra những cơ hội mới để đạt được lợi ích chính trị và tài chính. Mặc dù có Chính phủ, quyền lực thực sự vẫn nằm trong tay triều đình Bogd Khan. Giới tăng lữ này đã chiếm đoạt nguồn thu cho mục đích riêng của mình. Ví dụ, họ đã mở rộng nguồn tài chính bằng cách chuyển giao cho giới tăng lữ (Ikh shav') những người chăn gia súc giàu có, vốn theo truyền thống là phải đóng thuế và phục vụ cho các hoàng tử. Có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng, theo thời gian, lòng tham của giới tăng lữ Phật giáo đã khiến giới quý tộc bất mãn đến mức họ từ bỏ chính những nguyên tắc thần quyền mà quốc gia mới được thành lập.[5] Theo các nguồn tin Mông Cổ và Nga, xã hội Mông Cổ nhìn chung hài lòng với chế độ thần quyền nhưng có những quan điểm khác nhau về sự phát triển tương lai của đất nước.[6]
Về mặt ngoại giao, người Mông Cổ đã làm việc không mệt mỏi từ năm 1912 đến năm 1915 để giành được sự công nhận quốc tế về một nhà nước toàn Mông Cổ mới, bao gồm Nội Mông, Ngoại Mông Cổ, Thượng Mông Cổ, Barga và Tannu Uriankhai. Về phần mình, Trung Hoa Dân Quốc đã làm tất cả những gì có thể để tái lập chủ quyền của Trung Quốc đối với đất nước này. Nga từ chối ủng hộ nền độc lập hoàn toàn cho Mông Cổ; cũng không đồng ý khôi phục chủ quyền của Trung Quốc. Vấn đề đã được giải quyết vào năm 1915 bằng Hiệp ước Kyakhta (1915), quy định quyền tự trị của Mông Cổ trong nhà nước Trung Quốc và cấm Trung Quốc gửi quân đến Mông Cổ. Cả Trung Quốc và Mông Cổ đều thấy hiệp ước này không thỏa đáng, mặc dù vì những lý do khác nhau.
Bãi bỏ quyền tự trị
Sự bùng nổ của Cách mạng Nga năm 1917 và Nội chiến Nga một năm sau đó đã làm thay đổi mối quan hệ Mông Cổ-Trung Quốc. Trước những tin đồn về một cuộc xâm lược sắp xảy ra của phe Bolshevik, người Mông Cổ, rất miễn cưỡng và chỉ sau khi được Cao ủy Trung Quốc tại Khố Luân (Urga nay là Ulaanbaatar) khuyến khích, đã yêu cầu Trung Quốc hỗ trợ quân sự vào mùa hè năm 1918 (khoảng 200 đến 250 quân đã đến vào tháng 9). Trên thực tế, cuộc xâm lược đã không xảy ra, và vì vậy chính phủ của Bogd Khan đã yêu cầu rút quân. Chính phủ Bắc Kinh đã từ chối, coi hành động vi phạm Hiệp ước Kyakhta này là bước đầu tiên trong việc khôi phục chủ quyền của Trung Quốc đối với Mông Cổ.[7]
Đầu năm 1919, Grigori Semyonov, một vị tướng Bạch vệ, đã tập hợp một nhóm người Buryat và Nội Mông ở Siberia để thành lập một nhà nước toàn Mông Cổ. Người Khalkha được mời tham gia, nhưng họ từ chối. Semyonov đe dọa sẽ xâm lược để buộc họ phải tham gia. Lời đe dọa này đã khích lệ các hoàng thân, những người giờ đây nhìn thấy một cơ hội lớn hơn: sự chấm dứt chế độ thần quyền. Vào tháng 8, Bộ trưởng Ngoại giao Mông Cổ đã tiếp cận Trần Nghị với một thông điệp từ "đại diện của bốn aimag" (tức là người Khalkha) với yêu cầu hỗ trợ quân sự chống lại Semyonov. Quan trọng hơn, có lẽ, thông điệp này chứa đựng một tuyên bố rằng người Khalkha nhất trí mong muốn xóa bỏ quyền tự trị và khôi phục chế độ nhà Thanh trước đó.
Các cuộc đàm phán, với sự tham gia của đại diện Bogd Khan, đã bắt đầu ngay lập tức. Đến tháng 10, Trần Nghị và các thân vương Mông Cổ thỏa thuận về một bộ các điều kiện, "64 điểm", tái lập trên thực tế hệ thống chính trị và hành chính. Các điểm được đệ trình lên Quốc hội, thượng viện tán thành song hạ viện thì không[8] Tuy nhiên, trong vấn đề này, cũng như mọi vấn đề khác đã được trình lên Quốc hội trước đây, Thượng viện đã thắng thế. Trần Nghị đã gửi bản dự thảo Điều lệ đến Bắc Kinh. Bogd Khan đã cử một phái đoàn lạt ma đến Bắc Kinh với một bức thư nêu rõ rằng nhân dân Mông Cổ không muốn xóa bỏ quyền tự trị. Ông viết rằng tất cả chỉ là do Trần Nghị bày ra, và yêu cầu triệu hồi Trần Nghị.[9] Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc không quan tâm đến những lập luận khó hiểu về việc liệu có sự đồng thuận ở Mông Cổ về việc xóa bỏ quyền tự trị hay không. "Các Điểm" đã được trình lên Quốc hội Trung Quốc, và được phê chuẩn vào ngày 28 tháng 10.[10]

Các sự kiện chính trị diễn ra tại Trung Quốc sau đó đã làm thay đổi căn bản lịch sử Mông Cổ. Chính quyền Bắc Kinh nằm dưới sự kiểm soát của một nhóm quân phiệt có biệt danh là "Hoản hệ" do Đoàn Kỳ Thụy đứng đầu. Chính quyền này đã bị công chúng chỉ trích gay gắt vì đã không đạt được một giải pháp công bằng cho Vấn đề Sơn Đông tại Hội nghị hòa bình Paris. "Quân đội tham chiến" của Đoàn Kỳ Thụy, bề ngoài được thành lập để phục vụ ở châu Âu trong Thế chiến thứ nhất, nhưng thực chất được sử dụng để duy trì quyền kiểm soát nội bộ của Đoàn Kỳ Thụy, cũng bị chỉ trích. Để đánh lạc hướng dư luận, ông ta chỉ đơn giản đổi tên cơ quan của mình thành "Cục Biên phòng" và đổi tên quân đội thành "Quân Biên phòng". Tháng 6 năm 1919, một thành viên nổi bật của Hoản hệ là Từ Thụ Tranh được bổ nhiệm làm "Tây Bắc trù biên sứ" kiêm "Tây Bắc biên phòng quân tổng tư lệnh", là quan chức cao cấp về quân sự và dân sự tại Ngoại Mông.[11] Trước đó, trong tháng 4, Từ Thụ Tranh đệ trình một kế hoạch lên chính phủ Bắc Kinh nhằm tái thiết toàn thể xã hội và kinh tế của Ngoại Mông, trong đó có đề xuất rằng để người Hán đến định cư và khuyến khích liên hôn giữa người Hán và người Mông Cổ nhằm "biến đổi phong tục của người Mông Cổ".[12]

64 Điểm của Trần Nghị đảm bảo cho Mông Cổ một loại hình tự trị, như vậy sẽ buộc Từ Thụ Tranh phải từ bỏ kế hoạch của mình. Từ Thụ Tranh đến Khố Luân (Urga) vào tháng 10 cùng một đạo quân. Ông ta thông báo cho Trần Nghị rằng 64 Điểm cần phải được thương lượng lại dựa trên một bộ đề xuất mới là "Tám Điều" của ông ta, trong đó đòi hỏi gia tăng dân số và phát triển kinh tế. Từ Thụ Tranh trình các điều cho Bogd Khaan cùng một lời đe dọa rằng việc từ chối phê chuẩn chúng sẽ dẫn đến việc bị trục xuất [đến Trung Quốc]. Bogd Khaan trình các điều lên Quốc hội Mông Cổ, thượng viện chấp thuận còn hạ viện thì bác bỏ; một số thành viên của hạ viện thậm chí còn đe dọa trục xuất Từ Thụ Tranh bằng vũ lực. Các Lạt ma chủ yếu phản đối kế hoạch của Từ. Nhưng một lần nữa, Thượng viện lại thắng thế.[13] Vào ngày 17 tháng 11 năm 1919, Từ chấp nhận một bản kiến nghị—có chữ ký của các bộ trưởng và thứ trưởng nhưng không có chữ ký của chính Bogd Khan—về việc bãi bỏ quyền tự trị.[14]
Từ trở về Bắc Kinh, nơi ông được phe Hoản hệ đón tiếp như một vị anh hùng. Đến tháng 12, ông trở lại Khố Luân để tổ chức một buổi lễ chính thức chuyển giao quyền lực: binh lính xếp hàng hai bên đường dẫn đến cung điện của Bogd Khan; chân dung của Tổng thống Trung Hoa được kiệu; quốc kỳ Trung Hoa Dân Quốc được rước theo sau, và sau đó là một đoàn diễu hành. Người Mông Cổ được yêu cầu quỳ lạy nhiều lần trước những biểu tượng của chủ quyền Trung Hoa này.[15] Đêm hôm đó, một số mục dân và lạt ma tập hợp ngoài cung điện và giật những quốc kỳ Trung Quốc treo ở cửa cung xuống.[16]
Kháng cự

Từ năm 1919 đến đầu năm 1920, một số người Mông Cổ đã đến thành lập các nhóm sau này được gọi là "Đồi Lãnh sự" (Konsulyn denj) và Đông Urga (Züün khüree).[17] Đây là khởi đầu của cuộc kháng chiến chống lại Từ Thụ Tranh và việc bãi bỏ quyền tự trị.
Nhóm đầu tiên tồn tại chủ yếu là nhờ Dogsomyn Bodoo, một lạt ma có học thức cao từng làm việc tại Lãnh sự quán Nga tại Urga trong thời kỳ Bogd Khaan. Chung một yurt với Bodoo là Khorloogiin Choibalsan, người mà về sau được gọi là "Stalin của Mông Cổ". Mikhail Kucherenko, một thợ sắp chữ tại xưởng in Nga-Mông và là thành viên của phong trào Bolshevik bí mật tại Urga, thỉnh thoảng đến thăm Bodoo và Choibalsan; các cuộc trò chuyện chắc chắn xoay quanh cuộc cách mạng Nga và tình hình chính trị ở Mông Cổ. Theo thời gian, những người Mông Cổ khác đã cùng Bodoo và Choibalsan thảo luận về việc bãi bỏ quyền tự trị và sự thất bại của các hoàng tử và lạt ma cao cấp Mông Cổ trong việc kháng cự hiệu quả với Trung Quốc.[18]
Những người lãnh đạo nhóm Đông Urga là Soliin Danzan (1885–1924), một viên chức trong Bộ Tài chính, và Dansranbilegiin Dogsom (1884–1939), một viên chức trong Bộ Quân đội. Một thành viên khác, mặc dù ít nổi bật hơn vào thời điểm đó, là Damdin Sükhbaatar (1893–1923), một người lính trong quân đội Mông Cổ, sau khi qua đời, đã được các nhà sử học Cộng sản tôn vinh là "Lenin của Mông Cổ". Sự khởi đầu của nhóm Đông Urga có thể truy nguyên từ giữa tháng 11 năm 1919, khi một số thành viên có tính chiến đầu hơn trong hạ viện của Quốc hội Mông Cổ, gồm Danzan và Dogson, tụ họp bí mật vào đêm đầu tiên sau khi Từ Thụ Tranh bãi bỏ quyền tự trị, và quyết tâm kháng cự người Trung Quốc. Họ hai lần tiếp cận Bogd Khaan để giành được sự ủng hộ của ông ta dành cho kháng cự vũ trang; song Khaan đều khuyên kiên nhẫn. Nhóm lập kế hoạch chiếm kho vũ khí của quân đội Mông Cổ và ám sát Từ Thụ Tranh; tuy nhiên, việc sắp xếp các vệ binh Trung Quốc tại kho vũ khí và thay đổi hành trình của Từ Thụ Tranh đã cản trở các kế hoạch.[19]
Thành lập Đảng Nhân dân Mông Cổ
Những kiều dân Nga tại Urga bầu nên một "Duma đô thị" cách mạng, đứng đầu là những người ủng hộ Bolshevik, những người đã biết về nhóm Đồi Lãnh sự. Đầu tháng 3 năm 1920, Duma cử một thành viên của mình, I. Sorokovikov, đến Irkutsk. Họ quyết định rằng ông cũng nên mang theo một báo cáo về những người Mông Cổ này. Sorokovikov đã gặp gỡ đại diện của hai nhóm. Khi trở về Urga vào tháng 6, ông lại gặp họ, hứa rằng chính phủ Soviet sẽ cung cấp "mọi hình thức hỗ trợ" cho "công nhân" Mông Cổ. Ông mời họ cử đại diện đến Nga để thảo luận thêm.[20]
Một cảm giác mục tiêu mới đã tiếp thêm sinh khí cho cả hai nhóm. Trước đó, họ vẫn giữ khoảng cách thận trọng với nhau, có lẽ vì những chương trình nghị sự khác biệt — nhóm Đồi Lãnh sự theo đuổi một chương trình xã hội khá tiến bộ, trong khi nhóm Đông Urga lại mang mục tiêu dân tộc chủ nghĩa hơn — và giữa hai bên hầu như không có sự hợp tác. Lời mời của Liên Xô đã thay đổi điều đó. Hai nhóm gặp nhau vào ngày 25 tháng 6 và thành lập "Đảng Nhân dân Mông Cổ" (sau này đổi tên thành Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ), thông qua "Lời thề Đảng", và đồng ý cử Danzan và Choibalsan làm đại biểu đến Nga.[21]
Danzan và Choibalsan đến Verkhneudinsk, thủ đô của nước Cộng hòa Viễn Đông thân Liên Xô, vào đầu tháng 7. Họ đã gặp Boris Shumyatsky, khi đó là quyền lãnh đạo chính phủ, Shumyatsky biết ít về họ, trong ba tuần liên tiếp đã lảng tránh các yêu cầu của họ về việc đưa ra quyết định nhanh chóng liệu Liên Xô có hỗ trợ quân sự cho người Mông Cổ chống lại Trung Quốc hay không. Cuối cùng, có lẽ theo gợi ý của Shumyatsky, họ đã gửi một bức điện tín cho các thành viên của Đảng Nhân dân Mông Cổ (MPP) ở Urga, với một thông điệp mật rằng họ cần xin một bức thư có đóng dấu triện của Bogd Khan, chính thức yêu cầu sự hỗ trợ từ Liên Xô. Đảng Nhân dân Cách mạng có được một bức thư từ cung của Khaan' mặc dù gặp khó khăn. năm thành viên của Đảng là D. Losol, Dambyn Chagdarjav, Đảng đã thực sự thành công trong việc xin được bức thư từ triều đình của Khan, dù gặp nhiều khó khăn. Năm thành viên của Đảng — D. Losol, Dambyn Chagdarjav, Dogsom, L. Dendev và Sükhbaatar — đã mang thư đến Verkhneudinsk. Khi cả bảy người gặp Shumyatsky, ông nói rằng ông không có thẩm quyền đưa ra quyết định về yêu cầu của họ; họ phải đến Irkutsk.[22]
Khi đến Irkutsk vào tháng 8, những người Mông Cổ họp với người đứng đầu của tổ chức mà về sau được tái tổ chức thành Ban thư ký Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản, và giải thích rằng họ cần huấn luyện viên quân sự, 10.000 khẩu súng trường, đại bác, súng máy và tiền. Họ được cho biết rằng cần phải soạn một thư mới, lần này nhân danh Đảng thay vì Bogd Khaan, trong đó nêu các mục tiêu và thỉnh cầu của họ. Một kiến nghị như vậy sẽ được xem xét bởi Ủy ban Cách mạng Siberi tại Omsk.[23]
Người Mông Cổ chia thành ba nhóm: Danzan, Losol và Dendev rời đi Omsk; Bodoo và Dogsom trở về Urga, nơi họ sẽ mở rộng đảng phái và thành lập quân đội; Sükhbaatar và Choibalsan tiến về Irkutsk để làm cầu nối liên lạc giữa các nhóm còn lại.Trước khi tách ra, nhóm đã soạn thảo một lời kêu gọi mới với thông điệp mang tính cách mạng hơn: Giới quý tộc Mông Cổ sẽ bị tước bỏ quyền lực cha truyền con nối, thay thế bằng một chính phủ dân chủ do Bogd Khaan đứng đầu với tư cách là một quân chủ hạn chế. Văn kiện này cũng bao gồm một yêu cầu hỗ trợ quân sự ngay lập tức.[24]
Bạch vệ xâm chiếm


Sau nhiều cuộc họp với chính quyền Liên Xô tại Omsk, phái đoàn Mông Cổ được thông báo rằng một vấn đề quan trọng như vậy chỉ có thể được quyết định ở Moscow. Danzan và đồng chí của ông lên đường đến Moscow, đến nơi vào khoảng giữa tháng 9. Trong hơn một tháng, họ thường xuyên gặp gỡ nhưng không đi đến kết quả cuối cùng với các quan chức Liên Xô và Quốc tế Cộng sản.
Tuy nhiên, một cuộc xâm lược Mông Cổ của Bạch vệ dưới quyền Nam tước Roman von Ungern-Sternberg buộc chính phủ Xô viết phải hành động. Từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 năm 1920, khoảng 1.000 quân nhân dưới quyền chỉ huy của Ungern-Sternberg tiến hành bao vây quân đồn trú Trung Quốc tại Urga với quân số khoảng 7.000. Vào ngày 10 hoặc 11 tháng 11, ba người Mông Cổ được triệu tập vội vã đến một cuộc họp với chính quyền Liên Xô. Họ được thông báo rằng Đảng sẽ được cung cấp tất cả vũ khí cần thiết, nhưng họ phải nhanh chóng trở về Mông Cổ, tăng cường đảng viên và xây dựng quân đội tại đó.[25] Đồng thời, Moskva lệnh cho Quân đoàn số 5 Hồng quân vượt qua biên giới Mông Cổ và tiêu diệt quân của Ungern-Sternberg.[26]
Tuy nhiên, đơn vị đồn trú của Trung Quốc tại Urga đẩy lùi thành công cuộc tiến công của Roman von Ungern-Sternberg, điều này làm thay đổi chiến lược của Liên Xô. Quân đội của Cộng hòa Viễn Đông đã kiệt sức, chỉ còn Quân đoàn 5 của Hồng quân dời đến mặt trận phía đông, và đến cuối năm 1920 nhiều đơn vị tinh nhuệ hơn của quân đoàn đã giải ngũ, hoặc được phái đến phía tây để giao chiến với Ba Lan, hoặc được phân công lao động để phục hồi kinh tế Siberi.[27] Do đó, khi Trung Quốc đẩy lui quân của Roman von Ungern-Sternberg, những người Xô viết vào ngày 28 tháng 11 quyết định rút lại lệnh xâm nhập.[28]
Tuy nhiên, Roman von Ungern-Sternberg phát động một cuộc tiến công thứ nhì vào đầu tháng 2 năm 1921, lần này kết quả là thắng lợi. Các binh sĩ và thường dân Trung Quốc trốn khỏi thành phố trong hoảng loạn. Với việc Urga thất thủ, chính quyền và các đơn vị đồn trú của Trung Quốc tại Uliastai và Khovd nhanh chóng chuyển đến Tân Cương. Roman von Ungern-Sternberg phục hồi vị thế quân chủ Mông Cổ cho Bogd Khaan, chính phủ của ông cũng được khôi phục, và một buổi lễ long trọng đã được tổ chức vào ngày 22 tháng 2.
Đảng Nhân dân Mông Cổ phát triển

Tin tức về việc von Ungern-Sternberg chiếm Urga một lần nữa ảnh hưởng đến các kế hoạch của Liên Xô. Phiên họp toàn thể của Quốc tế Cộng sản tại Irkutsk vào ngày 10 tháng 2 đã thông qua một nghị quyết chính thức nhằm hỗ trợ "cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do của nhân dân Mông Cổ bằng tiền bạc, vũ khí và huấn luyện quân sự".[29] Với sự hỗ trợ của Liên Xô, Đảng Nhân dân Mông Cổ (MPP) giờ đây đã trở thành một ứng cử viên nặng ký cho quyền lực. Đảng, vốn trước đây khá mơ hồ và thiếu liên kết, cần được định hình rõ ràng hơn về mặt tổ chức và tư tưởng. Một hội nghị đảng (sau này được coi là đại hội đầu tiên của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ) đã được tổ chức bí mật từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 3 tại Kyakhta. Phiên họp đầu tiên có 17 người tham dự, phiên họp thứ hai có 26 người. Đảng đã phê chuẩn việc thành lập một bộ tham mưu chỉ huy quân đội do Sükhbaatar đứng đầu cùng với hai cố vấn người Nga, bầu ra một ủy ban trung ương do Danzan làm chủ tịch cùng với một đại diện từ Quốc tế Cộng sản, và thông qua một bản tuyên ngôn của đảng do Jamsrangiin Tseveen, một người Buryat tiến bộ, soạn thảo.[30] Ngày 13 tháng 3, một chính phủ lâm thời gồm bảy người được thành lập, do Bodoo sớm lãnh đạo. Ngày 18 tháng 3, quân đội du kích Mông Cổ, với quân số lúc này đã tăng lên 400 người thông qua tuyển mộ và quân dịch, đã chiếm đơn vị đồn trú của Trung Quốc tại Kyakhta Maimaicheng (phần Kyakhta thuộc Trung Quốc). Một niềm tin mới đã thắp lên trong Đảng. Đảng ra tuyên cáo thành lập chính phủ, trục xuất người Hoa và hứa triệu tập một đại hội "đại diện cho quần chúng" để bầu ra một chính phủ chính thức.[31] Một chiến tranh tuyên truyền giữa chính phủ lâm thời và triều đình của Bogd Khaan diễn ra sau đó: Đảng Nhân dân Mông Cổ truyền bá tờ rơi tại biên giới phía bắc kêu gọi nhân dân cầm vũ khí chống Bạch vệ; chính phủ của Bogd Khaan thì cảnh báo tại khu vực rằng những người cách mạng này có ý định phá hoại nhà nước Mông Cổ và làm tan vỡ các nền tảng thực sự của đức tin Phật giáo.[32]

Chính phủ Liên Xô mới rất mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Họ đã cử một đại diện đến Bắc Kinh; chính phủ Trung Quốc cũng đáp lại bằng một đại diện của mình đến Moskva. Có lẽ lý do chính khiến Liên Xô ngần ngại hỗ trợ Mông Cổ một cách quá công khai là vì sợ làm ảnh hưởng đến các cuộc đàm phán. Nhưng đến đầu năm 1921, mọi hạn chế đối với sự hỗ trợ công khai của Liên Xô dành cho Mông Cổ đã chấm dứt: Trung Quốc đình chỉ đàm phán với chính phủ Liên Xô vào tháng 1 năm 1921; chính phủ Trung Quốc dường như không có khả năng đàm phán với von Ungern-Sternberg; và đầu tháng 3, họ đã từ chối hỗ trợ quân sự của Liên Xô chống lại Bạch vệ. Chính lúc đó, người Nga đã kiên quyết ủng hộ cuộc cách mạng Mông Cổ.[33]
Biểu hiện vật chất của cam kết này là sự gia tăng dòng cố vấn và vũ khí Liên Xô đổ vào MPP trong tháng 3. Trong tháng 3 và tháng 4, các đơn vị Liên Xô và Cộng hòa Viễn Đông được điều động đến Kyakhta, trong khi quân Mông Cổ tăng gấp đôi số lượng du kích lên 800. Lực lượng của Von Ungern-Sternberg tấn công Kyakhta vào đầu tháng 6. Ông chạm trán với một lực lượng Hồng quân đông gấp nhiều lần quân của mình, và Bạch vệ đã bị đánh bật với tổn thất nặng nề. Ngày 28 tháng 6, quân đoàn viễn chinh chủ lực của Liên Xô đã vượt biên giới vào Mông Cổ, và ngày 6 tháng 7, các đơn vị Mông Cổ và Nga đầu tiên đã tiến vào Urga. Trước đây, người ta chỉ nói chung chung về von Baron Ungern Sternberg rằng quân đội Cộng sản Mông Cổ/Mongol đã đánh bại ông và hành quyết ông một cách xứng đáng vì những vụ đóng đinh và giết chóc lan rộng.
Những người cách mạng Mông Cổ ngay lập tức bắt tay vào công việc. Ngày 9 tháng 7, họ gửi thư đến triều đình Bogd Khaan, tuyên bố rằng quyền lực giờ đây nằm trong tay nhân dân: "Rối loạn quyền lực hiện nay phần nhiều là do nhược điểm của các lãnh đạo [thế tập] do thực tế rằng các pháp luật và tình thế hiện hành không thuận theo dòng chảy phát triển lịch sử. Do đó, mọi thứ, ngoại trừ tôn giáo, sẽ là đối tượng cải biến dần."[34] Ngày hôm sau, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết tuyên bố thành lập chính phủ mới do Bodoo đứng đầu, với Jebtsundamba Khutuktu là một quốc vương hạn chế. Ngày 11 tháng 7, Jebtsundamba Khutuktu cử hành nghi lễ nhậm chức quân chủ của Mông Cổ.
Hậu quả


Quân đội của Von Ungern-Sternberg, giờ đã bị đánh bại, bắt đầu tan rã. Ông bị quân lính bỏ rơi và bị Hồng quân bắt giữ. Liên Xô đã hành quyết ông ta vào cuối năm đó. Giao tranh sau đó chuyển sang miền tây Mông Cổ, và đến cuối năm 1921, Bạch vệ đã bị tiêu diệt hoặc bị trục xuất khỏi Mông Cổ.
Chính phủ Trung Quốc không hề thờ ơ trước cuộc xâm lược của von Ungern-Sternberg, họ bổ nhiệm Trương Tác Lâm làm chỉ huy một đạo quân viễn chinh nhằm đối phó. Tuy nhiên, việc Hồng quân chiếm đóng Urga vào tháng 7 và chính trị quân phiệt nội bộ của Trung Quốc buộc ông ta phải từ bỏ các kế hoạch của mình.[35] Vào tháng 6 năm 1921, quân đội Trung Quốc đã tàn sát hầu hết trong số 350 quân Bạch vệ dưới quyền Đại tá Kazagrandi tại sa mạc Gobi, chỉ có hai đợt đầu hàng riêng rẽ, gồm 42 người và 35 người, khi quân Trung Quốc đang tiêu diệt tàn quân Bạch vệ sau khi Hồng quân Liên Xô đánh bại Ungern Sternberg. Cùng mùa hè năm đó, tàn quân Buryat và Bạch vệ của quân đội Ungern-Sternberg cũng bị Hồng quân Liên Xô và lực lượng Mông Cổ thảm sát. Tại Uliastai, quân Mông Cổ dùng dùi cui đánh chết quân Buryat của Đại tá Vangdabov vì trung thành với Ungern-Sternberg.[36]

On the diplomatic front, the Soviets had proposed to the Chinese the convening of a tripartite conference, similar to that of 1914–15, to discuss Mongolia's relationship with China. The Chinese government, however, emboldened by the prospect of Zhang's expedition, responded that Mongolia was part of China, and thus could not be the subject of international negotiations. It was not until 1924 that a Chinese-Soviet treaty was concluded, by which the Soviet Union recognised Mongolia as an integral part of China, and agreed to withdraw its troops. The treaty notwithstanding, the death of the Khutuktu in that same year provided an opportunity for the MPP to dispense with theocratic rule entirely, and the Party announced the establishment of the Mongolian People's Republic. In 1946, the Chinese Nationalist government recognized the full sovereignty of the Mongolian People's Republic, though the KMT-led Republic of China was to withdraw that recognition after its retreat to Taiwan.[37] However, the Republic of China reiterates its recognition of Mongolia's independence in 2002.[38]
On May 21, 2012, the Mainland Affairs Council of the Republic of China stated that Mongolia (commonly known as Outer Mongolia in Taiwan) should be considered as an independent country. Furthermore, this statement also denied that Outer Mongolia is part of its constitutional territorial claims.[39] However, the ROC government in Taiwan continued to appoint ministers of Mongolian and Tibetan Affairs Commission until 2017.[40][41]
Trên mặt trận ngoại giao, Liên Xô đã đề xuất với Trung Quốc triệu tập một hội nghị ba bên, tương tự như hội nghị năm 1914–1915, để thảo luận về mối quan hệ giữa Mông Cổ và Trung Quốc. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc, được khích lệ bởi viễn cảnh về cuộc viễn chinh của Trương Tác Lâm nên đáp lại rằng Mông Cổ là bộ phận của Trung Quốc,đã trả lời rằng Mông Cổ là một phần của Trung Quốc, và do đó không thể là chủ đề của các cuộc đàm phán quốc tế. Mãi đến năm 1924, một hiệp ước Trung-Xô mới được ký kết, theo đó Liên Xô công nhận Mông Cổ là một phần không thể tách rời của Trung Quốc và đồng ý rút quân. Bất chấp hiệp ước, cái chết của Khutuktu trong cùng năm đó đã tạo cơ hội cho Đảng Nhân dân Mông Cổ (MPP) hoàn toàn từ bỏ chế độ thần quyền, và Đảng tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Năm 1946, chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc công nhận chủ quyền hoàn toàn của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, mặc dù Trung Hoa Dân quốc do Quốc dân đảng lãnh đạo đã rút lại sự công nhận đó sau khi rút lui về Đài Loan.[42] Đến năm 2002, Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan công nhận Mông Cổ độc lập.[43]
Ngày 21 tháng 5 năm 2012, Hội đồng Đại lục của Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố rằng Mông Cổ (thường được gọi là Ngoại Mông ở Đài Loan) nên được coi là một quốc gia độc lập. Hơn nữa, tuyên bố này cũng phủ nhận việc Ngoại Mông là một phần trong yêu sách lãnh thổ theo hiến pháp của họ.[44] Tuy nhiên, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan vẫn tiếp tục bổ nhiệm các bộ trưởng của Ủy ban Các vấn đề Mông Cổ và Tây Tạng cho đến năm 2017.[45][46]
Xem thêm
- Cách mạng Mông Cổ 1911
- Cách mạng Mông Cổ 1990
- Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng Mông Cổ
- Mongolian People's Republic
Tham khảo
- ^ Spence, The Search for Modern China, page 329
- ^ John S. Major (1990). The land and people of Mongolia. Harper and Row. tr. 119. ISBN 0-397-32386-7.
in 1919, a Japanese influenced faction in the Chinese government mounted an invasion of Outer Mongolia and forced its leaders to sign a "request" to be taken over by the government of China. Japan's aim was to protect its own economic, political, and military interests in North China be keeping the Russian Revolution from influencing Mongolia.
- ^ Thomas E. Ewing, Ch'ing Policies in Outer Mongolia 1900–1911, Modern Asian Studies (Cambridge, Eng., 1980), pp. 145–157.
- ^ See Thomas E. Ewing, "Revolution on the Chinese Frontier: Outer Mongolia in 1911", Journal of Asian History (Bloomington, Indiana, 1978), pp. 101–19.
- ^ Thomas E. Ewing, Between the Hammer and the Anvil. Chinese and Russian Policies in Outer Mongolia, 1911–1921, (Bloomington, Indiana, 1980), pp. 34–43.
- ^ Kuzmin, S.L. 2011. The History of Baron Ungern. An Experience of Reconstruction. Moscow: KMK Sci. Press, ISBN 978-5-87317-692-2
- ^ Ewing, Between the Hammer and the Anvil, p. 113.
- ^ Ts. Puntsagnorov, Mongolyn avtonomit üyeiin tüükh [Lịch sử người Mông Cổ trong thời kỳ tự trị], (Ulaanbaatar, 1955), p. 195.
- ^ Trung Nga quan hệ sử liệu: Ngoại Mông Cổ [中俄關係史料: 外蒙古], (Đài Bắc, 1959), no. 386, pp. 573-74.
- ^ Zhung-O, app. 1, pp. 28-29.
- ^ Lý Dục Chú (李毓澍), Ngoại Mông chính giáo chế độ khảo (外蒙政教制度考), (Đài Bắc, 1962), p. 237.
- ^ Trung-Nga, no. 108, pp. 380-84.
- ^ L Dendev, Mongolyn tovch tüükh [Lược sử Mông Cổ], (Ulaanbaatar, 1934), pp. 175-76.
- ^ Zhung-O, no. 414, p. 589.
- ^ Trần Sùng Tổ (陳崇祖), Ngoại Mông Cổ cận đại sử (外蒙古近世史), (Thượng Hải, 1926), bien 3, p. 11.
- ^ A. Kallinikov, U istokov mongol'skoi revolyutsii [Nguồn gốc của cách mạng Mông Cổ], Khozyaistvo Mongolii, pt. 1, p. 74.
- ^ Thomas E. Ewing chronicled the history of these two groups in The Origin of the Mongolian People's Revolutionary Party: 1920, Mongolian Studies (Bloomington, Ind., 1978-79), pp. 79-105.
- ^ Kh. Choibalsan, D. Losol, D. Demid, Mongolyn ardyn ündesnii khuv'sgal ankh üüseg baiguulagdsan tovch tüükh [Lược sử về cách mạng Mông Cổ] (Ulaanbaatar, 1934), v. 1, p. 56.
- ^ L. Bat-Ochir, D. Dashjamts, Damdiny Sukhe-Bator. Biografiya [Tiểu sử của Damdiny Sükhbaatar], (Moscow, 1971), p. 36.
- ^ G. Kungurov and I. Sorokovikov, Aratskaya revolyutsiya [cách mạng của những mục dân], (Irkutsk, 1957), p. 84.
- ^ Choibalsan, Losol, Demid, v. 1, pp. 100-02.
- ^ Choibalsan, Losol, Demid, v. 1, pp. 172-73.
- ^ Choibalsan, Losol, Demid, v. 1, pp. 174-95.
- ^ Choibalsan, Losol, Demid, v. 1, pp. 187-93.
- ^ Choibalsan, Losol, Demid, v. 1, pp. 242-48.
- ^ Sovetsko-mongolskiye otnosheniya, 1921-1974. [Quan hệ Xô-Mông, 1921-1974.], (Moscow, 1975), v. 1, p. 464.
- ^ Xem Jan M. Meijer, ed. The Trotsky Papers 1917-1922 (The Hague, 1971), v. 2, no. 669, pp. 401-03.
- ^ Dokumenty vneshnei politiki SSSR [Văn kiện chính sách đối ngoại của Liên Xô], (Moscow, 1957), v. 3, no. 192, pp. 55-56.
- ^ Istoricheskskii opyt bratskogo sodruzhestva KPSS i MNRP v bor'be za sotsializm [The historical experience of the solidarity of the CPSS and the MPRP in the struggle for socialism], (Moscow, 1971), p. 217.
- ^ Mongolyn ardyn khuv'sgalt namyn negdügeer ikh khural [First congress of the Mongolian People's Revolutionary Party], (Ulan Bator, 1971).
- ^ Ts. Nasanbaljir, Revolyutsionnye meropriyatiya narodogo pravitel'stva Mongolii v. 1921-1924 gg. [Những phương pháp cách mạng của chính phủ nhân dân Mông Cổ, 1921-1924], (Moscow, 1960), pp. 11-13.
- ^ Thomas E. Ewing, Russia, China, and the Origins of the Mongolian People's Republic, 1911-1921: A Reappraisal, (London, 1980), p. 419.
- ^ Ewing, Russia, China, p. 419.
- ^ Nasanbaljir, pp. 22-23.
- ^ Gavan McCormack, Chang Tso-lin, the Mukden Military Clique, and Japan, 1920–1928 (PhD dissertation, London University, 1974), p. 55.
- ^ Bisher, Jamie (2006). White Terror: Cossack Warlords of the Trans-Siberian . Routledge. tr. 339. ISBN 1135765960.
- ^ Ewing, Between the Hammer and the Anvil, pp. 256–258.
- ^ "Mongolian office to ride into Taipei by end of the year". Taipei Times. ngày 11 tháng 10 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
In October 1945, the people of Outer Mongolia voted for independence, gaining the recognition of many countries, including the Republic of China. (...) Due to a souring of relations with the Soviet Union in the early 1950s, however, the ROC revoked recognition of Outer Mongolia, reclaiming it as ROC territory.
- ^ "有關外蒙古是否為中華民國領土問題說明新聞參考資料" [Reference materials about the territory of the Republic of China excluding Outer Mongolia] (PDF) (bằng tiếng Trung). Mainland Affairs Council. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
- ^ "Taiwan calls time on Mongolia and Tibet affairs commission". South China Morning Post (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2020.
- ^ "Taiwan News Quick Take – Taipei Times". www.taipeitimes.com. ngày 16 tháng 9 năm 2017.
- ^ Ewing, Between the Hammer and the Anvil, pp. 256-58.
- ^ "Mongolian office to ride into Taipei by end of the year". Taipei Times. ngày 11 tháng 10 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
In October 1945, the people of Outer Mongolia voted for independence, gaining the recognition of many countries, including the Republic of China. (...) Due to a souring of relations with the Soviet Union in the early 1950s, however, the ROC revoked recognition of Outer Mongolia, reclaiming it as ROC territory.
- ^ "有關外蒙古是否為中華民國領土問題說明新聞參考資料" [Reference materials about the territory of the Republic of China excluding Outer Mongolia] (PDF) (bằng tiếng Trung). Mainland Affairs Council. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
- ^ "Taiwan calls time on Mongolia and Tibet affairs commission". South China Morning Post (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2020.
- ^ "Taiwan News Quick Take – Taipei Times". www.taipeitimes.com. ngày 16 tháng 9 năm 2017.
Tài liệu
- Choibalsan, Khorloogiin; Losol, Darizavyn; Demid, D. (1934). Mongolyn ardyn ündyesnii kkhuvisgal ankkh üüsyeg baiguulagdsan tovch tüükkh Монголын ардын üндеснии кхувьсгал анкх üüсег баигуулагдсан товч тüüкх [Brief history of the founding of the Mongolian People's Republic] (bằng tiếng Mông Cổ). Quyển 1. Ulaanbaatar.
{{Chú thích sách}}
: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết) - Ewing, Thomas E. (tháng 7 năm 1980). "Russia, China, and the Origins of the Mongolian People's Republic, 1911–1921: A Reappraisal". Slavonic and East European Review. 58 (3). London: 399–421. JSTOR 4208079.
- Nasanbaljir, Ts. (1960). Revolyutsionnye meropriyatiya narodogo pravitel'stva Mongolii v. 1921–1924 gg [Revolutionary measures of the Mongolian people's government, 1921–1924] (bằng tiếng Nga). Moscow.
{{Chú thích sách}}
: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết)