Châu Đốc là một địa danh tại miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử, địa danh này được sử dụng cho nhiều đơn vị hành chính khác nhau. Hiện tại, địa danh này được dùng chính thức để chỉ đến phường Châu Đốc, một đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam.
Nguồn gốc
Nguồn gốc của tên gọi Châu Đốc cho đến ngày nay vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.
- Một số người cho rằng tên gọi này chỉ là cách nói trại ra từ một tiếng Cam Bốt là Meàth Chruk,[1] có nghĩa là mõm heo hoặc miệng sông có tiếng heo kêu.[2]
- Hoặc nó được gọi theo tên trước đây của Cù lao Kết,[3] nơi được hình thành bởi Sông Tiền và Sông Hậu, sông Naréa và Sông Vàm Nao. Người Khmer cũng gọi cù lao này là SlaKét (cây cau dại).
Vùng Châu Đốc xưa thuộc đất Tầm Phong Long, năm 1757, được vua Chân Lạp Outey II dâng cho chúa Nguyễn để tạ ơn phục vị. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sai tướng Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh quản lý, đặt ra ba đạo là Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, Tân Châu ở xứ Tiền Giang và Châu Đốc (朱篤道) ở xứ Hậu Giang.[6]
Sau khi lên ngôi, năm 1805, vua Gia Long đã đặt lại địa giới hành chính Châu Đốc thuộc trấn Hà Tiên, Châu Đốc lúc này gọi là Châu Đốc Tân Cương. Năm 1808, đạo Châu Đốc thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thuộc Gia Định Thành. Năm 1815, triều Nguyễn cho xây thành Châu Đốc. Đến thời Minh Mạng, năm 1825, đạo Châu Đốc được tách riêng khỏi trấn Vĩnh Thanh, lập thành trấn. Năm 1831, vua Minh Mạng cho triệt phá thành (đồn) Châu Đốc cũ (1815), xây dựng thành Châu Đốc mới theo hình bát quái, ở phía đông đồn Châu Đốc cũ.[7]


Năm 1832, vua Minh Mạng cải cách hành chính, đổi trấn thành tỉnh. Trấn Châu Đốc được đổi thành tỉnh An Giang. Vua Minh Mạng cho đặt chức tổng đốc An Hà, lỵ sở tại thành Châu Đốc, cai quản 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên (gồm phần lớn đồng bằng sông Cửu Long ngày nay).[8] Thành bảo Châu Đốc khi đó nằm ở khoảng giữa của huyện Tây Xuyên, huyện này gồm cả phần đất nay thuộc đông nam tỉnh Takeo Campuchia, là nơi đóng lỵ sở của tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn, nằm gần ngã ba sông Châu Đốc - Vĩnh Tế, ở phía bờ đông sông kênh Vĩnh Tế, thuộc tổng Châu Phú (周富), huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang;[9]
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, năm 1868, thực dân Pháp đã tổ chức Nam Kỳ lục tỉnh thành 24 hạt Tham biện. Tỉnh An Giang cũ được chia làm 3, trong đó, hạt Châu Đốc (lỵ sở tại làng Châu Phú) trông coi hạt Long Xuyên (lỵ sở gần chợ Đông Xuyên) và hạt Sa Đéc (lỵ sở gần chợ Sa Đéc). Năm 1900, hạt Châu Đốc được đổi thành tỉnh Châu Đốc, tỉnh lỵ nằm trên địa bàn làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú.[10]
Những thay đổi trong lịch sử
Xem thêm
Chú thích
- ^ មាត់ជ្រូក IPA: /moatcruuk/ មាត់ /moat/: miệng sông, tiếng nói ជ្រូក /cruuk/: con heo
- ^ Cá nược là một loài động vật khá phổ biến tại khu vực sông Châu Đốc ngày xưa. Tiếng kêu của loài vật này rất giống với tiếng kêu của con heo nên người ta cũng gọi nó là cá heo.
- ^ Sla Kaet (ឃុំស្លាកែត), tức Cù lao cây Cau dại (aréquier sauvage). ស្លា ( n ) [slaa] : cây cau កើត [kaət]: ( v ) : sinh ra, lớn lên (adj): phía Đông
- ^ 朱 chu: màu đỏ; 篤 đốc: trung hậu, dốc sức, nguy cấp
- ^ Ghi chú thêm về chữ Hán theo Đại Nam thực lục: Châu Đốc 朱篤, Châu Giang 朱江, Châu Thị Tế 朱氏濟, Châu Phú 周富.
- ^ Đại Nam thực lục tiền biên.
- ^ Đại Nam nhất thống chí, tỉnh An Giang, trang 178.
- ^ Đại Nam nhất thống chí, tỉnh An Giang, trang 152.
- ^ Đại Nam nhất thống chí, tỉnh An Giang, Đồn cũ Châu Đốc, trang 178.
- ^ "Nam kỳ Lục tỉnh" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2013.








