Vụ phóng tên lửa Nike Zeus của quân đội Hoa Kỳ, loại tên lưa chống đạn đạo đầu tiên được thử nghiệm rộng rãi | |
| Loại hiệp ước | Hiệp ước song phương |
|---|---|
| Ngày kí | 26 tháng 5 năm 1972 |
| Nơi kí | Moscow, Russian SFSR, USSR |
| Ngày hết hiệu lực | 2002 (Mỹ rút khỏi hiệp ước) |
| Bên kí | |
| Bên tham gia | |
| Người phê duyệt | |
Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo, (tiếng Anh: Anti-Ballistic Missile Treaty, viết tắt ABM hay ABMT), là một hiệp ước kiểm soát vũ khí ký năm 1972 giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, nhằm hạn chế các hệ thống chống tên lửa đạn đạo (ABM) dùng để bảo vệ khu vực trước tên lửa đạn đạo chiến lược, loại phương tiện mang đầu đạn hạt nhân. Mục tiêu của hiệp ước là giảm áp lực buộc các bên phải chế tạo thêm vũ khí hạt nhân để duy trì thế răn đe.[1] Theo các điều khoản, mỗi bên chỉ được phép có hai tổ hợp ABM: một bảo vệ thủ đô và một bảo vệ một cụm hầm phóng ICBM. Mỗi tổ hợp bị giới hạn 100 tên lửa ABM và bệ phóng tương ứng, hai radar mảng pha, cùng 18 radar cỡ nhỏ cho cảnh giới sớm.[2](tr115) Hiệp ước cũng nghiêm cấm các tên lửa chống đạn đạo không cố định và không đặt trên mặt đất.
Năm 1974, mức trần được hạ xuống còn một tổ hợp ABM duy nhất. Liên Xô chọn triển khai hệ thống[A-35 xung quanh Moskva; Hoa Kỳ chọn cụm Safeguard bảo vệ các bãi ICBM của Không đoàn 20 (Twentieth Air Force), nhưng hệ thống này chỉ vận hành trong một năm (1974–1975).
Một phụ lục hiệp ước năm 1997 cho phép “phòng thủ tên lửa chiến trường”, dùng ABM chống tên lửa đạn đạo chiến thuật, với điều kiện không thử nghiệm đối mục tiêu có tốc độ quá 5 km/s (điển hình giai đoạn cuối của ICBM). Cũng trong năm 1997, năm năm sau khi Liên Xô tan rã, các cựu nước cộng hòa Belarus, Kazakhstan, Nga và Ukraina được xác lập là các quốc gia kế thừa trong khuôn khổ hiệp ước, với một hệ thống ABM được phép giữa họ.
Hiệp ước ký năm 1972 và có hiệu lực trong 30 năm tiếp theo.[3] Viện dẫn nguy cơ bị “tống tiền hạt nhân” từ các quốc gia bất trị, Hoa Kỳ dưới thời chính quyền George W. Bush đơn phương rút khỏi hiệp ước vào tháng 6 năm 2002, dẫn tới việc chấm dứt hiệu lực. Về phòng thủ ICBM, Hoa Kỳ sau đó vận hành hệ thống Ground-Based Midcourse Defense đặt tại Alaska và California, cùng hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo Aegis trên biển. Nga duy trì hệ thống A-135 quanh Moskva và đã phát triển S-500.
Vai trò
Hiệp ước ABM đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định chiến lược toàn cầu, ra đời vào thời điểm khi cuộc chạy đua vũ trang đã lên tới đỉnh điểm, khi kho vũ khí hạt nhân đã lên tới con số khó tin hàng chục nghìn đầu đạn, hiệp ước ABM có thể coi là hòn đá tảng duy trì sự cân bằng hạt nhân giữa hai siêu cường Liên Xô - Mỹ, từ đó mà hình thành thế ổn định chiến lược toàn cầu, đặt nền móng cho việc cắt giảm kho vũ khí hạt nhân sau này.
Nội dung và kết quả
Ra đời năm 1972, đóng được vai trò chính là nhờ điểm mấu chốt trong Hiệp ước ABM mà cựu Tổng Bí thư đảng Cộng sản Liên Xô Breznev và cựu Tổng thống Mỹ Nixon long trọng ký kết tại Moskva năm 1972 quy định hạn chế quy mô các hệ thống chống tên lửa đạn đạo. Trong khi không đề cập đến thực trạng kho vũ khí hạt nhân của đôi bên, hiệp ước ABM tập trung vào việc giới hạn hệ thống chống tên lửa, chỉ cho phép Liên Xô và Mỹ triển khai một hệ thống phòng thủ với không quá 100 tên lửa đánh chặn xung quanh thủ đô Moskva và Washington D.C.. Với số lượng hạn chế như vậy, mặc dù Liên Xô và Mỹ không ngừng tăng cường kho vũ khí hạt nhân của mình, nhưng trên thực tế thực chất không bên nào có khả năng chống trả các cuộc tấn công hạt nhân của đối phương. Điểm yếu không thể khắc phục đó đã buộc cả hai bên phải kiềm chế, bởi bất cứ hành động thiếu thận trọng nào trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ đồng nghĩa với việc tự sát.
Hiệp ước ABM còn quy định Liên Xô và Mỹ không được nghiên cứu, thử nghiệm các hệ thống chống tên lửa mới ngoài những gì đã có, từ đó mà giảm tối thiểu sức ép chạy đua vũ trang do nguy cơ xuất hiện những hệ thống chống tên lửa mới có khả năng vô hiệu hóa tiềm năng hạt nhân của đối phương.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Acton, James M. (ngày 13 tháng 12 năm 2021). "The U.S. Exit From the Anti-Ballistic Missile Treaty Has Fueled a New Arms Race". Carnegie Endowment for International Peace. Lưu trữ bản gốc 20 tháng 6 2022. Truy cập 12 tháng 9 2022.
- ^ Nash, Henry T. (ngày 1 tháng 5 năm 1975). Nuclear Weapons and International Behaviour. Kluwer Academic Publishers. ISBN 978-9028602656 – qua Internet Archive. tr. 115:
Each site would consist of 100 ABMs, or a total of 200 ABMs for each country
- ^ "Treaty Between the United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics on the Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems". Bureau of Arms Control. United States Department of State. ngày 26 tháng 5 năm 1972. Lưu trữ bản gốc 9 tháng 3 2022. Truy cập 13 tháng 9 2022.
Liên kết ngoài
- US Announcement of withdrawal (2001)
- Global Security Institute Lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2007 tại Wayback Machine
- Liên Xô năm 1972
- Hoa Kỳ năm 1972
- Hiệp ước kiểm soát vũ khí
- Hiệp ước Chiến tranh Lạnh
- Phòng thủ tên lửa
- Lịch sử Hoa Kỳ (1991–2008)
- Hiệp ước Liên Xô-Hoa Kỳ
- Quản lý vũ khí hạt nhân
- Hiệp ước được ký năm 1972
- Hiệp ước có hiệu lực từ năm 1972
- Nhiệm kỳ tổng thống Richard Nixon
- Chính trị năm 1972
- Hiệp ước công nghệ hạt nhân
- Quan hệ Hoa Kỳ-Nga
- Hiệp ước của Kazakhstan








