Giáo sư, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Trinh (Hồ Tôn Trinh) | |
---|---|
Sinh | Hà Tĩnh | 28 tháng 9, 1920
Mất | 19 tháng 3, 2011 Hà Nội | (90 tuổi)
Quốc tịch | ![]() |
Nghề nghiệp | giảng dạy, nghiên cứu |
Đảng phái chính trị | ![]() |
Học hàm | Giáo sư |
Khen thưởng | ![]() ![]() ![]() ![]() |
Sự nghiệp khoa học | |
Ngành |
|
Công trình nổi bật |
|
Giải thưởng Giải thưởng Hồ Chí Minh 1996 Khoa học Công nghệ |
Hoàng Trinh (tên khai sinh là Hồ Tôn Trinh; 28 tháng 9 năm 1920 – 19 tháng 3 năm 2011) là nhà nghiên cứu văn học phương Tây, nhà lý thuyết và lịch sử văn học, nhà ký hiệu học Việt Nam. Ông được phong hàm Giáo sư năm 1982, là viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Hungari năm 1979.
Tiểu sử
Hoàng Trinh, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1920 tại Viêng Chăn, Lào, nguyên quán tại xã Đại Nài, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông công tác tại Ủy ban cách mạng huyện Thạch Hà rồi chuyển sang làm Phó Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Trưởng ty Tuyên truyền văn nghệ Hà Tĩnh. Sau năm 1954, ông tham gia vào các hoạt động tuyên huấn, văn nghệ, giáo dục ở Ban Tuyên huấn Trung ương.[1]
Từ 1959 ông về công tác tại Viện Văn học và lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Phó viện trưởng Viện Văn học, Phó viện trưởng Viện Khoa học Xã hội miền Nam (1968-1982); Viện trưởng Viện Văn học kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn học (1985-1988); Chủ tịch hội đồng khoa học Viện Văn học (1985-1988, 1996-2000).
Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; Ủy viên thường trực Hội đồng quốc gia chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam; Phó chủ tịch Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam.
Ông là viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Hungari vào năm 1979, được phong học hàm Giáo sư vào năm 1982.[2]
Sau khi thôi làm quản lý, ông được bổ nhiệm làm chuyên gia cao cấp của Nhà nước và công tác cho đến lúc nghỉ hưu vào năm 2000, khi đã bước qua tuổi 80.[3]
Ông mất ngày 19 tháng 3, 2011 tại Hà Nội.[4]
Sự nghiệp
Hoàng Trinh được xem như là một người đi tiên phong tìm tòi, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu hiện đại của lý luận văn học thế giới như ký hiệu học, thi pháp học, văn học so sánh… vào Việt Nam.[5]
Hoàng Trinh là người có công rất lớn trong hoạt động truyền bá trên các diễn đàn quốc tế về tinh hoa văn học nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, đặc thù của tiếng Việt văn học, đặc thù của văn học, văn hóa Việt Nam.[6]
Các công trình nghiên cứu lý luận và phê bình văn học nổi bật nhất của ông là: Phương Tây, văn học và con người (2 tập); Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học ; Về khoa học và nghệ thuật trong phê bình văn học ; Đối thoại văn học ; Từ ký hiệu học đến thi pháp học . Với những công trình này, ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I vào năm 1996.[6]
Ông còn là tác giả, chủ biên và đồng tác giả của nhiều công trình khác như: Văn học ngọn nguồn và sáng tạo (1973); Tiếp cận văn học dưới góc độ thông tin (1990); Phương pháp luận về văn hóa và phát triển (1995); Văn học, cuộc sống, nhà văn (1979); Phấn đấu để có những thành tựu mới trong văn nghệ (1980); bộ Từ điển Văn học Việt Nam... cùng hàng trăm bài tiểu luận nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước.[6]
Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhất;[7] Huân chương Kháng chiến hạng Ba và hạng Nhất; Huân chương Lao động hạng Nhất.[8]
Công trình chính
- Phương Tây văn học và con người (tập 1, 1969, tập 2, 1971) chuyên luận
- Văn học ngọn nguồn và sáng tạo (1979) nghiên cứu – phê bình
- Văn học, cuộc sống nhà văn (chủ biên, 1979)
- Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học (1979) tiểu luận
- Đối thoại văn học (1986) chuyên luận
- Tiếp cận văn học dưới góc độ thông tin (1990)
- Từ ký hiệu học đến thi pháp học (1992) chuyên luận
- Phương pháp luận về văn hoá và phát triển (1995)
- Trên những dặm đường khoa học (bút ký, 1995)
Một số công trình đăng trong các tạp chí khoa học quốc tế:
- Những công trình lớn như Lịch sử của Arnold Toynbee (Anh)
- Làn sóng thứ ba của Alvin Toffler (Mỹ)
- Châu Âu năm 2000 (cùng nhiều tác giả người Pháp)
- Những biến đổi xã hội và động thái văn hóa (Pháp)
Vinh danh
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ năm 1996
- Giải thưởng khoa học Rokefeller, Mỹ (1989)
- Được bầu viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Hungary (1979)
Khen thưởng
- Huân chương Kháng chiến hạng Ba và hạng Nhất.
- Huân chương Lao động hạng Nhất.
- Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Chú thích
- ^ Nguyễn Điệp. "GS Hồ Tôn Trinh với nghiên cứu văn học phương Tây". Bảo tàng di sản các nhà khoa học Việt Nam. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
- ^ "Giáo sư HOÀNG TRINH (1920-2011)". Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
- ^ Tôn Lan (ngày 28 tháng 9 năm 2020). "Giáo sư, Viện sỹ Hồ Tôn Trinh: Một nhân cách trí thức lớn có công xây dựng nền lý luận văn học". Báo Tin tức. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
- ^ GS Hoàng Chương (ngày 23 tháng 3 năm 2011). "Nhớ Giáo sư, Viện sĩ Hoàng Trinh". Nhân Dân. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2025.
- ^ Tôn Lan (ngày 28 tháng 9 năm 2020). "Giáo sư, Viện sỹ Hồ Tôn Trinh: Một nhân cách trí thức lớn có công xây dựng nền lý luận văn học". Báo Tin tức. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
- ^ a b c "Tọa đàm khoa học nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Giáo sư, Viện sĩ Hồ Tôn Trinh, một nhân cách trí thức lớn có công xây dựng nền lý luận văn học". Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. ngày 27 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
- ^ Nguyễn Minh Hồng (ngày 21 tháng 12 năm 2023). "Lễ Kỷ niệm 70 năm thành lập Viện Văn học (1953-2023)". Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
- ^ "Giáo sư, Viện sĩ HOÀNG TRINH". Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh. ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
Liên kết ngoài
- Giáo sư, viện sĩ Hoàng Trinh – một gương mặt tiêu biểu trong khoa học xã hội và nhân văn Lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2007 tại Wayback Machine