Joanne là album phòng thu thứ năm của ca sĩ người Mỹ Lady Gaga, phát hành ngày 21 tháng 10 năm 2016 bởi Streamline Records và Interscope Records. Sau những đánh giá chuyên môn trái chiều của album thứ ba Artpop (2013), Gaga bắt đầu theo đuổi hình tượng nhẹ nhàng hơn và phong cách âm nhạc tối giản nhằm nhấn mạnh vào khả năng thanh nhạc của cô, bắt đầu từ album hợp tác Cheek to Cheek (2014) với Tony Bennett. Joanne là một bản thu âm dance-pop, soft rock và Americana kết hợp với âm hưởng của nhạc đồng quê, trong đó nội dung ca từ của đĩa nhạc đề cập đến những chủ đề về gia đình và những cảm xúc trong cuộc sống. Tiêu đề của album được đặt theo tên của dì cô Joanne Stefani Germanotta, người đã qua đời và để lại ảnh hưởng sâu sắc đến gia đình và sự nghiệp của nữ ca sĩ. Đóng vai trò sản xuất chính của dự án với Mark Ronson và BloodPop, Gaga kết hợp với một số cộng tác viên khác nhau như Kevin Parker, Emile Haynie, Jeff Bhasker và Josh Homme. Ngoài ra, kinh nghiệm diễn xuất của cô khi tham gia mùa thứ năm của loạt phim truyền hình American Horror Story cũng góp phần vào quá trình sáng tạo đĩa nhạc.
Quá trình ra mắt Joanne đánh dấu sự tiếp nối cho nỗ lực xây dựng phong cách mộc mạc của Gaga khi theo đuổi diện mạo gọi nhớ đến những ca sĩ kiêm sáng tác nhạc thập niên 1970, với chiếc mũ cao bồi màu hồng rộng vành, mặc quần denim cổ điển và màu pastel. Sau khi phát hành, album nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao định hướng âm nhạc, giọng hát, khâu sản xuất và nội dung lời bài hát, mặc dù vấp phải một số ý kiến cho rằng tổng thể thiếu tính gắn kết. Joanne cũng nhận được một đề cử giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 60. Đĩa nhạc gặt hái những thành công đáng kể về mặt thương mại khi đứng đầu các bảng xếp hạng tại Brazil và Mexico, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia còn lại, bao gồm vươn đến top 5 ở nhiều thị trường lớn như Úc, Canada, Hà Lan, Ireland, Ý, New Zealand, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Joanne ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 tại Hoa Kỳ với 201,000 đơn vị album tương đương, trở thành đĩa nhạc quán quân thứ tư trong sự nghiệp của Gaga tại đây.
Album phòng thu thứ ba của Gaga, Artpop được phát hành vào tháng 11 năm 2013 và nhận được những phản ứng trái chiều từ giới chuyên môn.[1] Đĩa nhạc ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200, và đã bán được 2.5 triệu bản tính đến tháng 7 năm 2014.[2][3] Trong khoảng thời gian này, Gaga chia tay người quản lý lâu năm Troy Carter vào cuối năm 2013,[4] và đến tháng 6 năm 2014, cô và người quản lý mới Bobby Campbell quyết định gia nhập Artist Nation, một bộ phận quản lý nghệ sĩ của Live Nation Entertainment.[5] Đối diện với những vấn đề xung quanh cuộc sống cá nhân, nữ ca sĩ thú nhận với NME rằng cô từng cân nhắc đến việc gác lại sự nghiệp âm nhạc vì cảm thấy chán nản về bản thân và "không nhìn thấy khả năng hoặc tài năng của chính mình".[6] Những phản ứng trái chiều đối với Artpop dẫn đến một sự thay đổi lớn về mặt hình ảnh của cô. Với diện mạo có phần nhẹ nhàng hơn trước truyền thông, Gaga chú trọng hơn vào khả năng thanh nhạc. Một tiết mục tri ân bộ phim The Sound of Music tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87, nơi cô hát một liên khúc những bài hát từ bộ phim, được giới phê bình khen ngợi.[5][7] Gaga và Tony Bennett cũng phát hành Cheek to Cheek, một album song ca mang âm hưởng jazz, vào tháng 9 năm 2014 và nhận được những đánh giá tích cực.[8] Đĩa nhạc ra mắt trên đỉnh bảng xếp hạng Billboard 200, trở thành album quán quân thứ ba liên tiếp của Gaga tại Hoa Kỳ,[9] và chiến thắng một giải Grammy cho Album giọng pop truyền thống xuất sắc nhất.[10]
^"Top Stranih [Top Foreign]" (bằng tiếng Croatia). Top Foreign Albums. Hrvatska diskografska udruga. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2016.
^"Czech Albums – Top 100" (bằng tiếng Séc). ČNS IFPI. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016. Ghi chú: Trên trang xếp hạng này, chọn 201643 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu bảng xếp hạng chính xác.
^"Jaaroverzichten 2016 Albums" [Annual overviews 2016 Albums] (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
^"Los más vendidos 2016" [Best sellers 2016] (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
^ ab"Anuario SGAE 2016 (Musica Grabada)" [SGAE Yearbook 2016 (Recorded Music)] (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). SGAE. ngày 24 tháng 9 năm 2017. tr. 29. Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017.