Like a Virgin là album phòng thu thứ hai của ca sĩ người Mỹ Madonna, phát hành vào ngày 12 tháng 11 năm 1984 bởi Sire Records và Warner Bros. Records. Sau những thành công bước đầu của album đầu tay mang chính tên cô (1983), Madonna bắt tay thực hiện đĩa nhạc tiếp theo và lựa chọn Nile Rodgers để sản xuất toàn bộ dự án, sau khi ấn tượng với những tác phẩm của ông trong Let's Dance (1983) của David Bowie. Để đảm bảo album sẽ chính xác như những gì bản thân hình dung, cô đích thân lựa chọn tất cả những bản nhạc. Nữ ca sĩ tự viết năm bài hát với bốn trong số đó được đồng sáng tác bởi bạn trai cũ Stephen Bray, trong khi phần còn lại được sáng tác bởi nhiều nghệ sĩ khác. Những buổi thu âm được diễn ra tại phòng thu Power Station ở Thành phố New York, với sự tham gia đóng góp của những cựu thành viên ban nhạc Chic của Rodgers như Bernard Edwards và Tony Thompson. Like a Virgin là một bản thu âm dance-pop và post-disco với nội dung ca từ đề cập đến những chủ đề về tình dục, chủ nghĩa duy vật, nhảy múa và mâu thuẫn trong một mối quan hệ. Ngoài ra, cô còn hát lại "Love Don't Live Here Anymore" (1978) của Rose Royce.
Mặc dù đã hoàn thiện vào cuối tháng 4 năm 1984, kế hoạch ra mắt đĩa nhạc phải bị hoãn lại do thành công của "Borderline" và doanh số ngày càng tăng của album đầu tay. Sau khi phát hành, Like a Virgin nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao khâu sản xuất Rodgers nhưng giọng hát của Madonna lại vấp phải nhiều chỉ trích. Tuy nhiên, album vẫn gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại khi thống trị các bảng xếp hạng tại Hà Lan, Đức, Ý, New Zealand, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 10 ở tất cả những thị trường còn lại, bao gồm vươn đến top 5 ở nhiều thị trường lớn như Úc, Áo, Canada, Pháp, Nhật Bản, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Đĩa nhạc đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 trong ba tuần liên tiếp, đánh dấu album quán quân đầu tiên của Madonna tại Hoa Kỳ và được chứng nhận đĩa Kim cương bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) với lượng đĩa xuất xưởng đạt mười triệu đơn vị. Tính đến nay, Like a Virgin đã bán được hơn 21 triệu bản trên toàn thế giới, trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.
Ba đĩa đơn đã được phát hành từ Like a Virgin. Bài hát chủ đề được chọn làm đĩa đơn mở đường và lọt vào top 10 tại hơn 17 quốc gia, cũng như trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của nữ ca sĩ trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại Hoa Kỳ. "Material Girl" cũng đạt được những thành công tương tự, và cả hai đĩa đơn đầu tiên đều được ghi nhận như những bài hát trứ danh trong sự nghiệp của cô. Những đĩa đơn tiếp theo "Angel" và "Dress You Up" cũng vươn đến top 5 tại Hoa Kỳ, trong khi đĩa đơn trích từ phiên bản tái phát hành "Into the Groove" đứng đầu nhiều bảng xếp hạng khắp Châu Âu. Để quảng bá album, Madonna thực hiện chuyến lưu diễn đầu tay The Virgin Tour (1985), bên cạnh màn trình diễn "Like a Virgin" tại giải Video âm nhạc của MTV lần đầu tiên được nhìn nhận là một trong những khoảnh khắc mang tính biểu tượng nhất nền văn hóa đại chúng và lịch sử lễ trao giải. Trong những năm tiếp theo, album góp phần giúp nữ ca sĩ trở thành siêu sao và tạo nên xu hướng thời trang đối với phụ nữ trẻ lúc bấy giờ. Năm 2023, Like a Virgin được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ chọn để bảo tồn trong Cơ quan Đăng ký Ghi âm Quốc gia Hoa Kỳ.
^Tại Ý, Like a Virgin được chứng nhận Bạch kim cho doanh số 500,000 bản vào năm 1986. Năm sau, album nhận được thêm giải Bạch kim với cùng mức độ chứng nhận (đạt tổng cộng 1 triệu bản được chứng nhận) mặc dù đối với các bản phát hành mới, một đĩa Bạch kim tương đương với 200,000 bản vào thời điểm đó.
^Like a Virgin (ghi chú album). Madonna. Sire. Warner Bros. Records. 1984. 9 25157-2.{{Chú thích ghi chú album}}: Quản lý CS1: tham số others trong cite AV media (liên kết)
^Like a Virgin (Remastered Edition) (CD). Madonna. Sire Records. Warner Bros. 2001. 9362-47901-2.{{Chú thích ghi chú album}}: Quản lý CS1: tham số others trong cite AV media (liên kết)
^Like a Virgin (ghi chú album). Madonna. Sire. Warner Bros. Records. 1985. 925 181-1 WX 20.{{Chú thích ghi chú album}}: Quản lý CS1: tham số others trong cite AV media (liên kết)
^"Ísland (LP-plötur)" (bằng tiếng Iceland). Timarit.is. ngày 6 tháng 9 năm 1985. tr. 43. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2024.
^"Jaaroverzichten 1985" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
^Bakker, Macchgiel; Inglis, Cathy (ngày 23 tháng 12 năm 1985). "Pan-European Awards 1985"(PDF). Eurotipsheet. Quyển 2 số 51/52. tr. 7. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
^"Les Albums (CD) de 1985" (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"La Nueva Madonna". Somos (bằng tiếng Tây Ban Nha). 1992. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024. [c]uando en el ' 83 vendió 9 milloInes (millones) de copias de su primer álbum, nadie creía que Madonna podía ser capaz de superarse a sí misma. Sin embargo , el asunto fue in crescendo : Like a Virgin largo con 11 millones , True Blue trepó a 17 y la cosa no paró más . Sólo en la Argentina , se vendieron 140 . 000 placas del primer LP, 160 . 000 del segundo . 190 . 000 del tercero y 270 . 000 del cuarto
^Garcia, Sérgio (ngày 31 tháng 10 năm 1993). "No banco com Madonna". Jornal do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
^"אלבומים ומכירות בארץ" [Albums and sales in Israel]. LaIsha (bằng tiếng Do Thái). ngày 13 tháng 8 năm 2001. tr. 56. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2023.
^"Latest Gold / Platinum Albums" (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 17 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2024.
^Andersen, Unn Conradi (ngày 27 tháng 3 năm 1998). "Madonna mot ny rekord". Dagbladet (bằng tiếng Na Uy). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.