| MP5 | |
|---|---|
MP5 | |
| Loại | Súng tiểu liên |
| Nơi chế tạo | |
| Lược sử hoạt động | |
| Phục vụ | 1966-nay |
| Sử dụng bởi | Xem phần Các quốc gia sử dụng |
| Trận | Chiến tranh Vùng Vịnh Xung đột vũ trang tại Bắc Ireland Nội chiến Liban Xung đột Hồng Kông – Trung Quốc đại lục Biểu tình tại Hồng Kông 2019–2020* Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq[1] |
| Lược sử chế tạo | |
| Người thiết kế | Tilo Möller, Manfred Guhring, Georg Seidl, Helmut Baureuter |
| Năm thiết kế | 1964 |
| Nhà sản xuất | Heckler & Koch |
| Giá thành | 1465$(MP5SF) đến 2490$(MP5SD) |
| Giai đoạn sản xuất | 1966-nay |
| Số lượng chế tạo | khoảng 1.000.000 khẩu |
| Các biến thể | Xem Sử dụng |
| Thông số | |
| Khối lượng | 2,54 kg (5,6 lb)[2] |
| Chiều dài | 680 mm (27 in) |
| Độ dài nòng | 225 mm (8,9 in) |
| Chiều rộng | 50 mm (2,0 in) |
| Chiều cao | 260 mm (10,2 in) |
| Đạn | 9x19mm Parabellum 10mm Auto (MP5/10) .40 S&W (MP5/40) |
| Cơ cấu hoạt động | Blowback |
| Tốc độ bắn | 800 viên/phút 900 viên/phút (MP5K) 700 viên/phút (MP5SD) |
| Sơ tốc đầu nòng | 400 m/s (1.312 ft/s) |
| Tầm bắn hiệu quả | 200 m (656 ft) |
| Chế độ nạp | Hộp tiếp đạn có thể tháo rời 15 ,30, 40 hoặc viên [3] |
| Ngắm bắn | Rear: rotary drum; front: hooded post |
MP5 (tiếng Đức: Maschinenpistole 5, n.đ. 'Submachine gun 5') là loại súng tiểu liên 9mm do Đức thiết kế, phát triển vào thập niên 1960 bởi nhóm kỹ sư thuộc Heckler & Koch GmbH (H&K).[4] Nó dùng thiết kế module tương tự mẫu Heckler & Koch G3 trước đó, và đã có hơn 100 phiên bản và sao chép,[5] bao gồm các phiên bản chọn chế độ bắn, bán tự động, giảm thanh, compact và cả phiên bản bắn tỉa.[6] Khẩu MP5 là một trong các khẩu súng tiểu liên phổ biến nhất thế giới, đã được biên chế bởi trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ và rất nhiều lực lượng quân đội, cảnh sát, cơ quan tình báo, cơ quan an ninh và lực lượng bán quân sự.[7][8]
Các nỗ lực nhằm thay thế mẫu MP5 bởi Heckler & Koch bắt đầu từ thập niên 1980, mặc dù các nguyên mẫu có những đặc điểm vượt trội, một vũ khí kế nhiệm không đựoc đưa vào sản xuất thương mại cho đến những năm 1999, khi Heckler & Koch phát triển khẩu UMP.[9] Mặc dù có giá thành cao hơn, MP5 vẫn thành công hơn bởi thiết kế quen thuộc, độ giật thấp do cơ chế Blowback sử dụng con lăn thay vì sử dụng cơ chế blowback đơn thuần của UMP.[10]
Lịch sử
Heckler & Koch, sau sự thành công của súng trường chiến đấu G3 vào năm 1959, đã phát triển một dòng vũ khí nhỏ gồm bốn loại súng, tất cả đều dựa trên bố cục thiết kế chung và nguyên lý hoạt động của G3. Loại đầu tiên sử dụng cỡ đạn 7,62×51mm NATO, loại thứ hai dùng cỡ đạn 7,62×39mm M43, loại thứ ba dùng cỡ đạn 5,56×45mm NATO, và loại thứ tư sử dụng 9×19mm Parabellum. MP5 được tạo ra cho loại thứ tư với tên mã HK54; theo hệ thống đặt tên của HK, đây được phân loại là carbine với khả năng lựa chọn chế độ bắn sử dụng cỡ đạn của súng ngắn.[11]
Việc phát triển bắt đầu vào năm 1964, và đến năm 1966, HK54 đã được Bundesgrenzschutz (Biên phòng Tây Đức) và lực lượng đặc nhiệm của Bundeswehr chấp nhận biên chế, ban đầu với tên gọi MP64, trước khi được đổi tên thành MP5.[11] MP5A1 được giới thiệu vào cuối những năm 1960 và là mẫu đầu tiên có kính ngắm vòng trước và ốp lót tay "Slimline". Vào năm 1970, MP5 và MP5A1 đã được thay thế bởi MP5A2 và MP5A3, là các phiên bản cải tiến của MP5A1 với báng cố định và báng rút. Vào năm 1974, MP5SD, phiên bản có giảm thanh tích hợp, được giới thiệu, và vào năm 1976, MP5K, phiên bản gọn nhẹ, được phát triển theo yêu cầu về một phiên bản phù hợp với chiến đấu cận chiến ở Nam Mỹ. Vào năm 1977, các băng đạn thẳng ban đầu đã được thay thế bằng băng đạn thép cong. Năm 1978, ốp lót tay "Tropical" đã được giới thiệu cho MP5.
Vào năm 1980, MP5 đã đạt được một vị thế huyền thoại khi xuất hiện trong cuộc bao vây Đại sứ quán Iran, khi các đặc nhiệm SAS (Special Air Service) của Quân đội Anh sử dụng MP5 trang bị đèn pin gắn trên đầu súng để tấn công tòa đại sứ và giải cứu các con tin bên trong. Những bức ảnh về chiến dịch này, với MP5, đã được truyền thông và phương tiện đại chúng phổ biến rộng rãi, và đã thúc đẩy các đơn vị quân đội và cảnh sát khác đưa vào biên chế MP5, nhanh chóng làm cho MP5 trở nên nổi tiếng trong các đơn vị chống khủng bố tinh nhuệ.[12] Kể từ đó, MP5 đã trở thành một vũ khí chủ lực trong các quân đội, lực lượng đặc biệt và các đơn vị chiến thuật cảnh sát trên toàn thế giới, nhưng dần dần bị thay thế từ cuối những năm 1990 bởi súng trường, súng carbine và vũ khí phòng vệ cá nhân do sự thay đổi trong xu hướng vũ khí, bao gồm việc tăng cường khả năng tiếp cận áo giáp có thể chặn được đạn súng ngắn.[13]
MP5 được sản xuất theo giấy phép tại một số quốc gia, bao gồm Hy Lạp (trước đây là Hellenic Arms Industry, hiện nay là Hellenic Defence Systems), Iran, Mexico (SEDENA), Pakistan (Pakistan Ordnance Factories), Ả Rập Xê Út, Sudan (Military Industry Corporation), Thổ Nhĩ Kỳ (MKEK), và Vương quốc Anh (trước đây là Royal Ordnance, sau chuyển sang Heckler & Koch Great Britain).[14]
Thiết kế
Phiên bản chính của dòng MP5 là MP5A2, là phiên bản tùy chọn chế độ bắn với cơ chế blowback sử dụng con lăn, sử dụng cỡ đạn 9×19mm Parabellum. Nó bắn từ vị trí khóa nòng đóng.[15]
Nòng súng cố định, không gắn vào ốp lót nòng, được rèn nguội có sáu rãnh xoắn phải với tỉ lệ xoắn 1 trong 250 mm (1:10 in) và được ép và ghim vào thân súng.[16]
Tính năng

Mẫu MP5 đầu tiên sử dụng băng đạn thẳng xếp đôi, nhưng từ năm 1977, băng đạn thép với một độ cong nhẹ đã được sử dụng với sức chứa 15 viên đạn (nặng 0.12 kg) hoặc với sức chứa 30 viên đạn (0.17 kg empty).[16]
Thước ngắm của súng có thể điều chỉnh được, bao gồm một trống diop xoay ở phía sau và đầu ruồi ở phía trước được bao trong một chiếc vòng. Khe ngắm phía sau có thể được điều chỉnh thủ công tùy thuộc vào sức gió và độ cao với một công cụ đặc biệt, với tùy chọn mặc định để bắn tại khoảng cách 25 mét (27 yd) với đạn tiêu chuẩn 8 gam (123 gr) 9×19mm Parabellum FMJ chuẩn NATO. Bánh xoay (trống) của tâm ngắm sau có bốn lỗ ngắm có đường kính khác nhau, dùng để điều chỉnh hệ thống diopter theo sở thích của người sử dụng và tình huống tác chiến.[17] Việc đổi qua lại giữa các lỗ ngắm không làm thay đổi điểm trúng mục tiêu ở khoảng cách xa.
MP5 sử dụng cơ cấu bắn dạng búa. Cụm cò được đặt trong một module cò bằng polymer có thể thay thế (và tích hợp tay cầm súng), và được trang bị cần chọn chế độ bắn ba vị trí kiêm công tắc an toàn cơ. Theo tiêu chuẩn cụm cò của HK, hầu hết biến thể MP5 có lựa chọn cụm cò “SEF” hoặc “Navy”, với các biến đổi thêm tùy theo loại và khả năng bắn loạt; các cụm cò “SE” và “0-1” chỉ có ở các biến thể bán tự động dành cho dân sự. Trong cụm cò “SEF”, cần chọn (tay gạt) nằm ở phía trái của cụm cò, nhưng ký hiệu SEF được in cả hai bên cụm cò; cụm cò “Navy” và một số loại khác là có thể dùng bởi người băn thuận cả hai tay. Công tắc an toàn được xoay tới các chế độ bắn hoặc vị trí an toàn bằng cách ấn phần đuôi của cần gạt. Ở mỗi vị trí có điểm dừng xúc giác để tạo điểm dừng rõ ràng và ngăn việc xoay nhầm. Chế độ “an toàn” vô hiệu hóa cò bằng cách chặn việc nhả búa bằng một phần chắc của trục an toàn nằm bên trong vỏ cụm cò.[16]
Cần nạp không chuyển động ngược nằm phía trên ốp tay nắm trước và nhô ra khỏi ống chứa cần nạp ở khoảng góc 45°. Cơ cấu điều khiển cứng này gắn với một đoạn ống bên trong vỏ cần nạp gọi là giá đỡ cần nạp, và đoạn giá đỡ này tiếp xúc với phần nối phía trước của bộ khóa nòng. Tuy nhiên nó không nối trực tiếp với khóa nòng và vì thế không thể dùng làm cơ chế hỗ trợ đóng nòng để đẩy bộ khóa nòng vào vị trí hoàn toàn. Cần nạp được giữ ở vị trí tiến bằng một chốt lò xo đặt ở đầu trước của giá đỡ cần nạp, chốt này ăn vào vỏ cần nạp. Cần có thể khóa ở vị trí kéo ra bằng cách kéo hết ra phía sau rồi xoay nhẹ theo chiều kim đồng hồ, khi đó nó có thể móc vào một rãnh trên ống cần nạp.[16]
Cơ chế hoạt đông

Đầu khóa nòng ăn khớp với bệ nòng – một ống trụ hàn vào thân súng, nòng được ghim chặt vào đây. Thiết kế delay giống súng trường G3: cụm khóa gồm đầu khóa có con lăn và thân mang khóa. Khi sẵn sàng bắn, thân mang (nặng hơn) tựa sát đầu khóa; chêm khóa có mặt nghiêng nằm giữa các con lăn, đẩy con lăn mở ra, chốt vào rãnh trên bệ nòng.[18]
Khi bóp cò, khí thuốc đẩy vỏ đạn tì vào đầu khóa và tạo lực lùi. Một phần lực truyền qua các con lăn đang tì vào rãnh khóa và mặt nghiêng của chêm. Nhờ góc nghiêng đã tính sẵn, thân mang khóa lùi nhanh gấp khoảng 4 lần đầu khóa. Khoảng chênh vận tốc này tạo độ trễ cần thiết để đầu đạn ra khỏi nòng và áp suất giảm về mức an toàn trước khi kéo vỏ khỏi buồng.[18]
Độ trễ hình thành vì cần thời gian để đủ năng lượng giật thắng quán tính của thân mang và lực đẩy về trước của lò xo hồi. Khi con lăn bị ép vào trong, chúng đẩy chêm khóa lùi và kéo thân mang chạy về sau. Lúc đầu, vỏ đạn còn “dính” trong buồng nên đầu khóa di chuyển chậm hơn. Sau khi thân mang lùi khoảng 4 mm, chêm khóa rút hẳn, con lăn lọt vào trong đầu khóa. Tới khi con lăn đã lọt hoàn toàn, cả cụm khóa mới tiếp tục lùi trơn tru trong thân súng, phá kín buồng đạn và chuyển sang chu trình nạp kế tiếp.[18]
Vì đạn 9×19mm Parabellum có công suất không quá lớn, MP5 không dùng cơ cấu chống nảy như G3. Thay vào đó, thân mang chứa 32,5 g hạt tungsten để triệt tiêu hiện tượng nảy ngược khi cụm khóa đập vào bệ nòng. Buồng đạn của MP5 có rãnh: một phần khí thoát ngược theo các rãnh nông dọc buồng, giúp vỏ không nở dính thành buồng (do khóa mở khi áp suất vẫn còn tương đối cao). Móc kéo vỏ gắn trong đầu khóa giữ vỏ đến khi chạm cần hất vỏ và bị hất ra cửa phóng bên phải. Cần hất kiểu đòn bẩy đặt trong cụm cò và được kích hoạt bởi chuyển động lùi của cụm khóa.[18]
Phụ kiện và các biến thể
Giống như M4 Carbine, MP5 được trang bị nhiều phụ kiện giúp tối ưu hóa khả năng sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau. Rãnh nòng súng có thể lắp thêm đèn flash, ống nhắm laser, ống phóng lựu có khả năng trang bị lựu đạn hơi cay, nòng giảm thanh.
Trong khi tất cả các khẩu MP5 đều có thể tích hợp ống giảm thanh, thì đã có một phiên bản giảm thanh hoàn toàn của MP5, đó là MP5SD3 hay MP5SD2 (phụ thuộc vào loại báng cố định hay rút vào). Phiên bản này có ống giảm thanh gắn hẳn vào súng (xạ thủ không thể tháo được giảm thanh này), có nòng để giảm vận tốc viên đạn xuống dưới vận tốc âm thanh (330 m/s). MP5SD có thể bắn bất kì loại đạn nào, không nhất thiết phải là đạn cận âm.
MP5K (K = "Kurz", trong tiếng Đức có nghĩa là ngắn) là phiên bản rút gọn, không có báng súng, kích thước và trọng lượng giảm đáng kể (chưa đến 2 kg và chỉ dài khoảng 32 cm) nên rất dễ dàng mang theo, tính cơ động tăng cao. Nó được sử dụng trong các hoạt động bí mật, những khu vực hẹp và hạn chế về không gian, dùng để bảo vệ những nhân vật quan trọng. Các biến thể khác là MP5K, MP5KA4, MP5KA1, MP5KA5.
Phiên bản MP5N dành cho hải quân có khả năng chống nước, trang bị đèn chiếu sáng tritium có khả năng chiếu xa hơn 200m, nòng giảm thanh và 3 chế độ bắn: bán tự động, burst 3 viên, chế độ tự động và có chế độ an toàn.
Ngoài ra, vào năm 1991, Heckler & Koch đã giới thiệu MP5/10 (dùng đạn 10mm) và MP5/40 (dùng đạn .40 S&W) dựa trên MP5A4 và MP5A5.
Các quốc gia sản xuất
Các quốc gia sử dụng
Đức
Mỹ: Đặc nhiệm hải quân Mỹ
Nhật Bản: Trang bị cho Biệt đội Cảnh sát đặc nhiệm (SWAT)
Việt Nam: Trang bị cho Cảnh sát cơ động Việt Nam
Campuchia: Trang bị cho Hiến binh Hoàng gia Campuchia
Hồng Kông: Trang bị cho Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông
Saudi Arabia: Trang bị cho Đặc nhiệm Saudi Arabia
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland: Trang bị cho Đặc nhiệm Không quân Anh (SAS)
Tham khảo
- ^ Small Arms Survey (2012). "Surveying the Battlefield: Illicit Arms In Afghanistan, Iraq, and Somalia". Small Arms Survey 2012: Moving Targets. Cambridge University Press. tr. 321. ISBN 978-0-521-19714-4. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2018.
- ^ Shea, Dan. "HK Defense Technology Division Group Submachine Guns Brochure". Small Arms Review. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2019.
- ^ C, Nicholas (ngày 13 tháng 1 năm 2021). "[TFB GUNFEST] Here Come The Drums! Magpul MP5 Drum & Glock 17 Drum Magazines". The Firearm Blog. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2021.
- ^ "H&K Web site, MP5 overview". Heckler-koch.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
- ^ "H&K Web site, MP5 overview". Heckler-koch.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
- ^ Hogg, Ian V. (2002). Jane's Guns Recognition Guide. Jane's Information Group. ISBN 0-00-712760-X.
- ^ Firepower: The Weapons the Professionals Use - and How. Weapons of the Terrorist War, #17 Orbis Publishing, 1990.
- ^ Tilstra 2012, tr. 42.
- ^ Dockery 2007, tr. 220.
- ^ Gao, Charlie (ngày 14 tháng 11 năm 2019). "Forget Stealth and Missiles: Meet the Russian Army's Greatest Guns (All in One List)". The National Interest. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2021.
- ^ a b Thompson 2014, tr. 8.
- ^ Davison, Phil (ngày 30 tháng 8 năm 2011). "John McAleese: Leader of the SAS team that ended the 1980 siege of the Iranian embassy in London" (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
- ^ "Tools of the Trade - SWAT" (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
- ^ "Report: Profiling the Small Arms Industry". World Policy Institute. tháng 11 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.
- ^ Thompson 2014, tr. 12.
- ^ a b c d Thompson 2014, tr. 18.
- ^ Thompson 2014, tr. 19.
- ^ a b c d Thompson 2014, tr. 68.
Tài liệu
- Tilstra, Russell C. (2012). Small Arms for Urban Combat. US: McFarland. ISBN 978-0-7864-6523-1. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2012.
- Thompson, Leroy (ngày 20 tháng 7 năm 2014). The MP5 Submachine Gun. Osprey Publishing. ISBN 978-1-78200-917-7.








