![]() | Trang hay phần này đang được viết mới, mở rộng hoặc đại tu. Bạn cũng có thể giúp xây dựng trang này. Nếu trang này không được sửa đổi gì trong vài ngày, bạn có thể gỡ bản mẫu này xuống. Nếu bạn là người đã đặt bản mẫu này, đang viết bài và không muốn bị mâu thuẫn sửa đổi với người khác, hãy treo bản mẫu {{đang sửa đổi}} .Sửa đổi cuối: Hongkytran (thảo luận · đóng góp) vào 102 giây trước. (làm mới) |
Robert Pattinson | |
---|---|
![]() Pattinson vào năm 2025 | |
Sinh | Robert Douglas Thomas Pattinson 13 tháng 5, 1986 Barnes, London, Anh |
Nghề nghiệp | Diễn viên |
Năm hoạt động | 2004–nay |
Bạn đời | Suki Waterhouse (2018–nay; đã đính hôn) |
Con cái | 1 |
Người thân | Lizzy Pattinson (chị gái) |
Giải thưởng | Danh sách đầy đủ |
Chữ ký | |
![]() |
Robert Douglas Thomas Pattinson (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1986) là một nam diễn viên người Anh. Nổi danh qua việc đóng vai chính trong cả các bom tấn phòng vé được sản xuất bởi hãng phim lớn lẫn các phim độc lập, anh được xếp vào hàng ngũ những diễn viên có thu nhập cao nhất thế giới và tổng doanh thu các tác phẩm điện ảnh của anh đã vượt mốc 4,7 tỷ USD trên toàn cầu. Vào năm 2010, tạp chí Time đã đưa Pattinson vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới, cũng như được xướng tên trong Forbes Celebrity 100.
Sinh ra và lớn lên ở London, Pattinson bén duyên với nghề diễn từ khi mới 13 tuổi tại một câu lạc bộ kịch nghệ địa phương. Anh bắt đầu xuất hiện trên màn ảnh với các vai phụ, trong đó có bộ phim Vanity Fair (2004), và nổi bật với vai Cedric Diggory trong Harry Potter và Chiếc cốc lửa (2005). Pattinson thực sự gây tiếng vang toàn cầu khi hóa thân thành Edward Cullen trong loạt phim The Twilight Saga (2008–2012), đạt tổng doanh thu hơn 3,3 tỷ USD trên toàn thế giới. Ngoài ra, tài tử còn đảm nhận vai chính trong các bộ phim tình cảm lãng mạn Remember Me (2010) và Water for Elephants (2011).
Pattinson sau đấy chuyển hướng sang các bộ phim độc lập của những đạo diễn tác giả . Anh nhận được nhiều lời khen ngợi cho diễn xuất của mình trong phim chính kịch Cosmopolis (2012) của David Cronenberg, phim phiêu lưu Thành phố vàng đã mất (2016) của James Gray, phim hình sự Good Time (2017) của anh em nhà Safdie, phim khoa học viễn tưởng High Life (2018) của Claire Denis và phim kinh dị tâm lý The Lighthouse (2019) của Robert Eggers. Tiếp đó, anh tái xuất với dòng phim thương mại kinh phí lớn, thủ vai chính trong phim giật gân – gián điệp Tenet (2020) của Christopher Nolan và hóa thân thành nhân vật nhan đề trong phim siêu anh hùng Batman: Vạch trần sự thật (2022) của Matt Reeves.
Pattinson cũng đã góp giọng cho một số bản nhạc phim. Anh tham gia các hoạt động từ thiện và ủng hộ các tổ chức như GO Campaign. Bắt đầu sự nghiệp người mẫu lúc còn nhỏ, Pattinson đã trở thành gương mặt đại diện cho dòng nước hoa Dior Homme từ năm 2013. Vẻ ngoài nam tính của anh luôn là chủ đề được bàn tán sôi nổi trên truyền thông và anh thường xuyên được ca ngợi là một trong những diễn viên hấp dẫn nhất, từng được liệt vào danh sách "Người đàn ông quyến rũ nhất hành tinh" của People vào các năm 2008 và 2009. Anh hiện đang trong mối quan hệ với nữ ca sĩ kiêm diễn viên Suki Waterhouse, cả hai có với nhau một con người con chung.
Thời niên thiếu
Robert Douglas Thomas Pattinson[1][2] sinh ngày 13 tháng 5 năm 1986 tại Barnes, London, Anh.[3][4][5] Cha anh, Richard, sở hữu một doanh nghiệp chuyên nhập khẩu xe hơi từ Hoa Kỳ – còn mẹ anh, Clare, làm việc tại một công ty người mẫu. Cặp đôi gặp nhau qua một người bạn chung của gia đình tại khu Richmond Hill và đã kết hôn khi Clare 26 tuổi và Richard 35 tuổi.[6] Pattinson có hai chị gái, Victoria và Elizabeth.[7][8] Năm 4 tuổi, anh bắt đầu theo học Trường dự bị Tower House Boys và sớm bộc lộ niềm yêu thích với dương cầm và guitar.[9] Năm 6 tuổi, Pattinson đã tham gia các buổi diễn nghiệp dư. Anh đảm nhiệm vai diễn đầu tiên trong vở kịch Spell for a Rhyme do một giáo viên của mình sáng tác, rồi sau đó đóng trong bản chuyển thể Chúa Ruồi của William Golding tại trường.[9]
Pattinson bắt đầu công việc giao báo từ năm 10 tuổi, kiếm được khoảng £10 (tương đương £24 năm 2023) mỗi tuần. Lúc nhỏ, anh khá bừa bộn, thể hiện "sự từ chối thẳng thừng đối với việc làm bài tập về nhà" và có thái độ "lơ đễnh".[10] Các chị gái của Pattinson thường hóa trang cho anh thành một nhân vật nữ mà họ đặt tên là ClaudiaClaudia.[11][12] Trong thời gian rảnh, anh thích đá bóng, chơi trò chơi điện tử và xem các chương trình truyền hình như Sharky and George, Doctor Who và Hammerman.[13] Khi Pattinson 12 tuổi, anh bị đuổi học khỏi Tower House vì tội ăn cắp tạp chí khiêu dâm.[14][15] Cha mẹ anh về sau đăng ký cho anh học tại Trường Harrodian , tọa lạc trên đường Lonsdale gần nhà.[16] Pattinson học rất giỏi môn ngôn ngữ Anh, mà anh mô tả là môn học yêu thích của mình.[17] Khi còn là thiếu niên, anh làm người mẫu ảnh cho các tạp chí và thương hiệu thời trang Anh, cũng như thử sức với vai trò nhà thiết kế thời trang.[18][19][20] Vào cuối độ tuổi thiếu niên, Pattinson biểu diễn guitar acoustic tại các đêm nhạc open mic ở nhiều quán rượu khắp London, nơi anh trình bày những ca khúc tự chấp bút. Anh diễn solo dưới nghệ danh Bobby Dupea hoặc cùng với ban nhạc của mình Bad Girls.[11]
Pattinson thoạt tiên cân nhắc theo đuổi sự nghiệp âm nhạc hoặc học viết diễn văn tại trường đại học, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến việc trở thành một diễn viên. Một giáo viên từng khuyên anh không nên tham gia câu lạc bộ kịch nghệ của trường vì cho rằng anh không phù hợp với nghệ thuật sáng tạo.[21][22] Năm 13 tuổi, dưới sự khuyến khích của cha, Pattinson gia nhập nhóm kịch nghiệp dư địa phương Barnes Theatre Company nhằm giúp tài tử vượt qua sự nhút nhát của bản thân.[23][17] Sau khi làm việc hậu trường, anh thử vai trong vở kịch Guys and Dolls và nhận vai diễn đầu tiên là một vũ công người Cuba không có lời thoại.[24][25] Trong vở kịch tiếp theo Our Town, anh được giao vai chính George Gibbs.[26] Trong buổi diễn này, một người đại diện tài năng đã chú ý tới anh, khởi đầu cho hành trình theo đuổi diễn xuất chuyên nghiệp của Pattinson.[27] Anh tiếp tục tham gia các vở kịch như Macbeth, Anything Goes và Tess of the d'Urbervilles.[28] Pattinson ban đầu dự định sẽ vào đại học, tuy nhiên lịch quay phim Harry Potter và Chiếc cốc lửa đã khiến anh phải thay đổi kế hoạch.[29] Khoảng thời gian này, anh sống cùng người bạn thời thơ ấu Tom Sturridge trong một căn hộ ở Soho.[30]
Sự nghiệp
2004–2007: Bắt đầu sự nghiệp
Pattinson bắt đầu sự nghiệp với các vai diễn phụ trong bộ phim phát sóng truyền hình Ring of the Nibelungs năm 2004 do Đức sản xuất, và trong phim điện ảnh cổ điển Vanity Fair của đạo diễn Mira Nair – mặc dù các cảnh có mặt anh đều đã bị xóa và chỉ được tặng kèm trong phiên bản DVD.[31][32] Tháng 5 năm 2005, anh được lên kế hoạch tham gia buổi công chiếu của The Woman Before tại Nhà hát Royal Court ở Vương quốc Anh, nhưng lời mời đã bị hủy bỏ ngay trước đêm khai mạc và Tom Riley được mời thay thế vai trò của anh.[33] Cuối năm đó, Pattinson vào vai Cedric Diggory trong Harry Potter và Chiếc cốc lửa.[34] Với vai diễn này, anh đã được The Times đặt tên là "Ngôi sao Anh Quốc của ngày mai"[35] và hơn một lần được khen ngợi là người kế nghiệp Jude Law.[36][37][38] Để vào vai diễn này, anh đã phải đi học cách lặn biển.[39]
Năm 2006, Pattinson xuất hiện trong The Haunted Airman, một bộ phim giật gân tâm lý phát sóng trên BBC Four vào ngày 31 tháng 10; tác phẩm đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ giới chuyên môn.[40][41][42] The Stage khen ngợi màn trình diễn của anh là "sự kết hợp hoàn hảo giữa nỗi kinh hoàng của tuổi trẻ và sự giễu cợt đầy mỏi mệt của thế giới."[43] Ngày 19 tháng 2 năm 2007, Pattinson xuất hiện với một vai phụ trong tác phẩm truyền hình một tập dựa trên cuốn tiểu thuyết bán chạy của Kate Long, The Bad Mother's Handbook.[44][45]
2008–2013: The Twilight Saga và sự công nhận trên toàn thế giới
Năm 2008, Pattinson đảm nhận vai chính đầu tiên của mình với nhân vật Art trong bộ phim How to Be do Oliver Irving đạo diễn.[46][47] Trong phim, Art – sau khi chia tay bạn gái – quyết định quay về sống cùng cha mẹ và thuyết phục một chuyên gia tự lực người Canada tới London để giúp anh tái thiết cuộc sống. Irving hồi tưởng về buổi thử vai của Pattinson: "Robert bước vào, quên mất lời thoại rồi cứ thế tự ứng biến, mà đó lại chính xác là điều tôi mong đợi [...] Cậu ấy thực sự là một người rất khiêm tốn".[48] Bản thân Pattinson cũng rất thích quá trình quay bộ phim này, chia sẻ rằng anh "yêu thích kịch bản" và thấy nó "khác hẳn với bất cứ thứ gì [anh] từng đọc trước đây".[48] Cùng năm đó, anh vào vai Salvador Dalí trong phim Little Ashes (2008).[49] Ban đầu anh được cân nhắc cho vai Federico García Lorca – người tình của Dalí,[49] song vai này cuối cùng thuộc về Javier Beltrán.[50] Dẫu vậy, tác phẩm nhìn chung nhận về đánh giá không mấy tích cực từ giới phê bình; Greg Quill của Toronto Star nhận định rằng "ngay cả những khung cảnh thành thị và đồng quê được quay với chất điện ảnh dày dặn và gam màu giàu chiều sâu bởi nhà quay phim Adam Suschitzky cũng không thể cứu vãn nổi một kịch bản thiếu chiều sâu và diễn xuất yếu kém trong một bộ phim lẽ ra có thể trở thành một tác phẩm chính kịch lịch sử đầy sức nặng".[51]

Sang năm 2008, Pattinson vào vai nam chính Edward Cullen trong bộ phim giả tưởng lãng mạn Chạng vạng, đóng cặp cùng Kristen Stewart. Tác phẩm được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 2005 của Stephenie Meyer.[52][53][54] Có khoảng ba nghìn người đã gửi hồ sơ ứng tuyển cho vai Cullen, rất nhiều trong số đó đã tham gia buổi thử vai. Đạo diễn Catherine Hardwicke chia sẻ rằng Pattinson sở hữu "mọi yếu tố mà [họ] cần [...] gương mặt góc cạnh và khí chất bí ẩn rất giống với Edward".[55] Theo lời Pattinson, diễn xuất của anh trong phim phần lớn chịu ảnh hưởng từ Stewart.[56] Nam diễn viên cũng phải luyện nói giọng Mỹ và bắt đầu đeo kính áp tròng để phù hợp với nhân vật.[57] Trong phim, Bella (do Stewart thủ vai) đối mặt với nguy hiểm đến từ James, một ma cà rồng tàn ác muốn sát hại và hút máu cô, buộc Cullen – người tình ma cà rồng của Bella – phải lao vào một cuộc chiến sống còn với James để bảo vệ cô.[58] Tuy bộ phim nhận về nhiều ý kiến trái chiều từ giới phê bình, nhưng đa phần đều đánh giá cao sự ăn ý giữa Pattinson và Stewart. Manohla Dargis của The New York Times mô tả Pattinson là một diễn viên "có năng lực và mang vẻ đẹp lạ lùng quyến rũ",[59] trong khi Roger Ebert thì cho rằng anh là một sự lựa chọn "rất phù hợp" cho vai diễn này.[60]
Pattinson xuất hiện với tư cách người trao giải tại lễ trao giải Oscar lần thứ 81 vào tháng 2 năm 2009; ban đầu anh dự kiến sẽ xuất hiện cùng Stewart, nhưng cô đã từ chối tham gia.[61] Cùng năm đó, anh đóng vai Richard trong phim ngắn The Summer House (2009) của đạo diễn Daisy Gili. Tác phẩm theo chân Richard – người đến Pháp để tìm cách nối lại tình cảm với bạn gái cũ Jane (do Talulah Riley thủ vai) sau khi đã phản bội cô.[48][62] The Summer House về sau được tái phát hành trong tuyển tập mang tên Love & Distrust (2010), gồm năm phim ngắn khắc họa cuộc sống của tám nhân vật đến từ nhiều hoàn cảnh khác nhau trên con đường tìm kiếm hạnh phúc.[63] Revolver Entertainment cũng phát hành Robsessed (2009), một bộ phim tài liệu kể về cuộc đời và hành trình trở thành ngôi sao của Pattinson.[64] Tài tử tái xuất với vai Edward Cullen trong phần phim tiếp theo của Chạng vạng, The Twilight Saga: Trăng non, ra mắt vào tháng 11 năm 2009.[65][66] Tác phẩm đạt kỷ lục doanh thu 142,8 triệu USD chỉ trong cuối tuần công chiếu đầu tiên và thu về tổng cộng 711 triệu USD trên toàn cầu, trở thành phim có doanh thu cao thứ bảy trong năm 2009.[67][68][69] Bill Goodykoontz của The Arizona Republic nhận xét rằng "Thực ra Pattinson không xuất hiện quá nhiều trong phim, nhưng mỗi khi xuất hiện trên màn ảnh, anh ấy đều thể hiện hết mình",[70] trong khi Michael O’Sullivan của The Washington Post thì đánh giá diễn xuất của anh là "ổn định và đầy ấn tượng".[71] Trăng non đã mang về cho nam diễn viên 3 giải Điện ảnh của MTV tại lễ trao giải năm 2010.[72]

Năm 2010, Pattinson giữ vai trò giám đốc sản xuất kiêm diễn viên chính trong bộ phim chính kịch tuổi mới lớn Nhớ đến anh,[73] hóa thân thành Tyler Hawkins.[74] Tác phẩm do Allen Coulter đạo diễn, xoay quanh một cặp đôi trẻ đang cố gắng vun đắp mối quan hệ của họ sau khi trải qua bi kịch gia đình.[75] Diễn xuất của Pattinson trong phim nhận về nhiều ý kiến trái chiều từ giới phê bình.[76][77]
2014–2019: Các phim độc lập

Vào tháng 5 năm 2014, hai bộ phim có sự tham gia của Pattinson đã được công chiếu tại Liên hoan phim Cannes 2014.[78] Pattinson thủ vai chính trong bộ phim viễn Tây vị lai The Rover của đạo diễn David Michôd, đóng cùng với Guy Pearce và Scoot McNairy.[79] Anh đã dành trọn bảy tuần bấm máy tại Úc để hóa thân vào nhân vật Rey – một chàng trai trẻ tuổi người Mỹ ngây thơ, bị chính anh trai mình bỏ rơi sau một vụ cướp bất thành. Tác phẩm lấy bối cảnh ở Outback mười năm sau một cuộc khủng hoảng kinh tế. Scott Foundas của tạp chí Variety đã ca ngợi đây là "màn trình diễn tái định hình sự nghiệp" của Pattinson, đồng thời đánh giá cao chất giọng miền Nam chân thực và "sự điềm đạm tinh tế" mà anh thể hiện trong một vai diễn mà lẽ ra rất dễ trở nên bi lụy.[80] Kế đó, nam diễn viên tái hợp với đạo diễn David Cronenberg trong bộ phim châm biếm Maps to the Stars.[81][82] Trong phim, anh vào vai Jerome Fontana – một tài xế limousine kiêm diễn viên đang vật lộn mưu sinh, nuôi mộng trở thành nhà biên kịch.[83] Cronenberg chia sẻ rằng việc chọn Pattinson là một "quyết định dễ dàng" và ca ngợi anh là một diễn viên "cực kỳ sáng tạo".[84] Tác phẩm nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình; Robbie Collin của The Daily Telegraph mô tả diễn xuất của Pattinson là "duyên dáng và đầy lôi cuốn".[85]
Vào tháng 1 năm 2015, Pattinson đã bay đến Morocco để ghi hình bộ phim tiểu sử Queen of the Desert của đạo diễn Werner Herzog – một tác phẩm chuyển thể từ câu chuyện cuộc đời của Gertrude Bell, đóng cùng Nicole Kidman và James Franco.[86][87] Trong phim, Pattinson vào vai T. E. Lawrence, hay còn được gọi là Lawrence xứ Ả Rập.[88] Geoffrey Macnab của The Independent mô tả phần trình diễn của Pattinson là "mang tính hài hước và khác biệt hoàn toàn với hình ảnh Peter O'Toole từng thể hiện", cho rằng anh đã khắc họa nhân vật Lawrence như "một người sắc sảo, mỉa mai, có khả năng nhìn thấu sự giả tạo của cấp trên và đồng nghiệp xung quanh".[89] David Rooney từ The Hollywood Reporter đánh giá vai diễn của Pattinson tuy "ngắn nhưng có sức nặng" và nhấn mạnh tới "sự ăn ý tự nhiên trong những phân cảnh chung giữa anh và Kidman".[90] Sau đó, Pattinson tiếp tục đóng chính trong bộ phim tiểu sử Life (2015) của đạo diễn Anton Corbijn, dựa trên cuộc đời của nam diễn viên James Dean.[91][86] Lấy bối cảnh thập niên 1950, Pattinson vào vai Dennis Stock, một nhiếp ảnh gia đã kết thân với Dean sau chuyến hành trình cùng tài tử sinh năm 1931 qua Los Angeles, Indiana và New York.[92] Guy Lodge từ tạp chí Variety gọi màn hóa thân của Pattinson là "một sự biến hóa đầy tinh tế",[93] trong khi David Rooney của The Hollywood Reporter thì cho rằng anh đã mang đến "có lẽ là vai diễn trọn vẹn bậc nhất trong sự nghiệp".[94]
Cuối năm 2015, Pattinson thủ vai chính trong The Childhood of a Leader – tác phẩm đầu tay của đạo diễn Brady Corbet, sát cánh cùng Bérénice Bejo và Stacy Martin.[95][96] Pattinson đảm nhận hai vai diễn trong phim: đầu tiên là Charles Marker – một phóng viên làm việc ở Đức trong Thế chiến thứ nhất, thứ hai là phiên bản trưởng thành của nhân vật nhà lãnh đạo nhan đề.[97][98] Peter Bradshaw từ The Guardian đánh giá diễn xuất của anh là "thanh lịch",[99] còn Lee Marshall của Screen International thì ca ngợi vai diễn này là "xuất sắc".[100] Năm 2016, tài tử xuất hiện trong bộ phim Thành phố vàng đã mất do Plan B Entertainment sản xuất và James Gray đạo diễn.[101][102] Tác phẩm được công chiếu lần đầu vào tháng 8 năm 2016 tại Liên hoan phim New York.[103][104] Anh đã được chọn vào vai nhà thám hiểm người Anh, Hạ sĩ Henry Costin, từ hồi tháng 11 năm 2013.[105] Lấy bối cảnh những năm 1920, phim theo chân Percy Fawcett – một nhà trắc địa người Anh đã mất tích trong rừng mưa Amazon khi đang tìm kiếm một thành phố huyền thoại.[106] Để nhập vai, Pattinson đã nuôi râu rậm và giảm gần 35 pound (16 kg).[107] Mặc dầu bộ phim là một bom xịt phòng vé,[108] song Mara Reinstein của tạp chí Us Weekly cho rằng diễn xuất của Pattinson là "lôi cuốn",[109] trong khi The Guardian nhận định anh "đáng xem hơn rất nhiều" và bình luận thêm rằng khán giả có thể "sẽ ước rằng nhân vật của Pattinson – chứ không phải Fawcett, người tuy điển trai nhưng lại nhạt nhòa – mới là trung tâm của bộ phim".[110]

Tiếp đó, nam diễn viên thủ vai chính trong bộ phim giật gân theo phong cách neo-exploitation[a] Good Time (2017) của anh em nhà Safdie, anh vào vai Connie Nikas – một tên cướp ngân hàng đang vật lộn để sinh tồn trong thế giới ngầm tội phạm tại Queens, New York.[111][112] Bộ phim được công chiếu trong hạng mục tranh giải tại Liên hoan phim Cannes 2017.[113] Màn hóa thân của Pattinson được Guy Lodge từ Variety mô tả là "đỉnh cao trong sự nghiệp",[114] còn Eric Kohn của IndieWire thì gọi đây là "vai diễn xuất sắc nhất sự nghiệp".[115] David Rooney của The Hollywood Reporter so sánh phần thể hiện của Pattinson với vai Sonny Wortzik của Al Pacino trong Dog Day Afternoon (1975) và kết luận rằng đây là "màn trình diễn quyền lực bậc nhất của anh từ trước đến nay".[116] Nhờ vai diễn này, Pattinson lần đầu tiên được đề cử giải Tinh thần độc lập cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.[117] Trong thời gian quảng bá Good Time, Pattinson còn viết kịch bản và đóng chính trong một phim ngắn do GQ phát hành mang tên Fear & Shame. Được ghi hình trên đường phố New York, tác phẩm theo chân Pattinson – trong vai chính mình – đang loay hoay tìm cách mua một chiếc hot dog trong khi cố gắng lẩn tránh sự săn đón của giới truyền thông và người hâm mộ.[118][119]
Bộ phim hài-viễn Tây Damsel (2018) của anh em nhà Zellner đánh dấu sự trở lại với thể loại hài kịch của Pattinson kể từ How to Be (2008).[120][121] Trong phim, anh vào vai Samuel Alabaster – một chàng cao bồi lập dị bắt đầu chuyến hành trình về phía Tây với mục tiêu giải cứu vị hôn thê bị bắt cóc của mình.[122] Diễn xuất của anh nhận được nhiều lời khen ngợi, Dana Schwartz từ Entertainment Weekly mô tả vai diễn là "kỳ quặc một cách đầy khoái trá, đến mức khiến người ta liên tưởng đến Jake Gyllenhaal trong Okja".[123] Bộ phim thứ hai và cũng là cuối cùng của tài tử trong năm 2018 là tác phẩm chính kịch khoa học viễn tưởng High Life do Claire Denis đạo diễn, lấy bối cảnh ngoài không gian và xoay quanh một nhóm tội phạm bị phái đi thực hiện nhiệm vụ tiếp cận hố đen.[124][125] Ban đầu Denis từng cân nhắc chọn Philip Seymour Hoffman cho vai chính, nhưng sau khi nhận thấy sự tận tâm và khát khao được hợp tác của Pattinson, bà đã quyết định giao vai cho anh.[126] Nam diễn viên hóa thân thành Monte – một người cha bất đắc dĩ phải một mình nuôi dạy con gái trong khi phi thuyền không gian của họ tiếp tục trôi dạt vào vũ trụ vô tận.[127][128] Allen Hunter từ Screen International khen ngợi Pattinson là nhân tố "nổi bật" và "thu hút" nhất trong phim,[129] còn Jason Bailey của The Playlist thì mô tả đây là "một màn trình diễn cháy bỏng khác của Pattinson", cũng như đánh giá cao cách anh truyền tải sự đe dọa ngấm ngầm và bản năng phản kháng của nhân vật.[130]
Vai diễn đầu tiên của Pattinson trong năm 2019 là trong bộ phim kinh dị tâm lý đen trắng The Lighthouse của đạo diễn Robert Eggers, lấy bối cảnh tại một hòn đảo hẻo lánh ở New England vào thập niên 1890.[131][132] Bộ phim được công chiếu trong chương trình Directors' Fortnight tại Liên hoan phim Cannes 2019, nhận được nhiều lời khen ngợi cả về cách kể chuyện lẫn diễn xuất của tài tử.[133][134] Trong bài phê bình cho The Guardian, Bradshaw mô tả màn thể hiện của anh là "gây mê hoặc" và "mạnh mẽ như một cú đấm búa tạ” mà "càng về sau càng bùng nổ".[135] Nhờ vai diễn này, Pattinson lần thứ hai được đề cử giải Tinh thần độc lập cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.[136] Hai bộ phim tiếp theo của Pattinson đều được công chiếu tại Liên hoan phim Venice 2019.[137] Đầu tiên là Quốc vương – lần hợp tác thứ hai của anh với Michôd và là một tác phẩm chuyển thể từ các vở kịch của William Shakespeare.[138][139] Trong phim, Pattinson hóa thân thành Louis, The Dauphin – đối thủ truyền kiếp của Henry V.[140][141] Để nhập vai, anh đã sử dụng chất giọng Pháp được phỏng theo cách nói chuyện của những người trong ngành thời trang Pháp.[142][143] Mặc dù ý kiến về giọng nói có phần trái chiều,[142][143] nhưng phần lớn giới phê bình đều đánh giá cao diễn xuất của anh, mô tả đây là "một vai diễn chiếm trọn spotlight" và là điểm sáng nổi bật của phim.[144][145] Tiếp đó, nam diễn viên góp mặt trong bộ phim Waiting for the Barbarians của đạo diễn Ciro Guerra, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 1980 của J. M. Coetzee, đóng cùng Mark Rylance và Johnny Depp.[146][147] Song vai diễn lần này của Pattinson nhận về nhiều phản ứng kém tích cực hơn: Boyd van Hoeij của The Hollywood Reporter nhận xét đây là "một vai phụ khá nhạt nhòa",[148] trong khi Harry Windsor của The Guardian cho rằng anh "diễn cứng nhắc" và "phát âm quá gượng gạo".[147]
2020–nay: Trở lại với dòng phim chính thống

Pattinson thủ vai Neil, một người điều phối gián điệp trong bộ phim Tenet (2020) của đạo diễn Christopher Nolan, sát cánh cùng John David Washington – đánh dấu sự trở lại của anh với dòng phim kinh phí lớn.[149] Anh cho biết mình đã xây dựng cử chỉ và phong thái cho nhân vật dựa trên tác gia Christopher Hitchens.[150][151] Jessica Kiang từ The New York Times mô tả nam diễn viên là một nhân tố "đầy thú vị" và khen ngợi sự ăn ý giữa anh và Washington trên màn ảnh.[149] Ngay sau đó, Pattinson góp mặt trong dàn diễn viên chính của Vùng đất bị ruồng bỏ (2020) – một tác phẩm tâm lý kinh dị được chuyển thể từ tiểu thuyết của Donald Ray Pollock.[152] Phim lấy bối cảnh thập niên 1950, Pattinson vào vai Preston Teagardin – một mục sư đồi bại trú tại thị trấn nhỏ.[153] Austin Collin từ Rolling Stone nhận xét anh là một nhân vật "khó nắm bắt, kỳ quặc và đầy lôi cuốn",[154] còn Owen Gleiberman của tạp chí Variety thì ca ngợi màn hóa thân "đầy phong cách" của anh".[155] Đến tháng 5 năm 2021, Pattinson đã ký thỏa thuận ưu tiên (first-look deal) với Warner Bros và HBO, theo đó anh sẽ tham gia sản xuất và phát triển các dự án phim ảnh trong tương lai.[156]
Tài tử hóa thân thành Batman cùng bản ngã bí mật Bruce Wayne trong bộ phim siêu anh hùng năm 2022 Batman: Vạch trần sự thật của đạo diễn Matt Reeves.[157] Sau khi Ben Affleck rút lui khỏi vai diễn này, Reeves đã tái chấp bút nhân vật Batman dành riêng cho Pattinson sau khi bị ấn tượng mạnh bởi màn thể hiện của anh trong Good Time.[158] Mặc dù ban đầu việc Pattinson được chọn vấp phải nhiều phản ứng trái chiều từ một bộ phận người hâm mộ Batman, tác phẩm vẫn gặt hái được thành công vang dội cả về phê bình lẫn doanh thu.[159] Diễn xuất của Pattinson sau đó đã được giới phê bình đánh giá cao, Davis Rooney của tờ The Hollywood Reporter nhận xét anh "lôi cuốn từ đầu đến cuối".[160] Sang năm 2023, Pattinson lồng tiếng cho con diệc xám nhan đề trong bản tiếng Anh của bộ phim hoạt hình Nhật Bản Thiếu niên và chim diệc do Miyazaki Hayao đạo diễn.[161] Tác phẩm của vị đạo diễn sinh năm 1941 đã thu về 294,2 triệu USD toàn cầu, trở thành phim Nhật Bản có doanh thu cao thứ năm mọi thời đại.[162][163] Cùng năm đấy, dưới danh nghĩa hãng sản xuất riêng mang tên Icki Eneo Arlo, Pattinson đảm nhiệm vai trò nhà sản xuất cho bộ phim được giới chuyên môn đánh giá cao Rotting in the Sun của đạo diễn Sebastián Silva.[164]
Vào năm 2025, Pattinson đảm nhận vai chính trong bộ phim khoa học viễn tưởng Mickey 17 của đạo diễn Bong Joon-ho, được chuyển thể từ tiểu thuyết Mickey7 (2022).[165] Anh hóa thân thành Mickey Barnes, một thành viên phi hành đoàn "có thể thay thế" trong một sứ mệnh ngoài không gian đầy hiểm nguy, người có khả năng tái sinh sau khi chết nhưng vẫn giữ lại gần như toàn bộ ký ức từ những phiên bản trước.[166][167] Bộ phim nhận được nhiều đánh giá tích cực, với phần lớn sự chú ý đổ dồn vào diễn xuất của tài tử khi anh thể hiện hai phiên bản khác nhau của cùng một nhân vật. Trong bài phê bình đăng trên Indiewire, David Ehrlich gọi đây là "hai trong số những màn trình diễn xuất sắc nhất trong sự nghiệp của anh".[168] Sắp tới, Pattinson sẽ đóng cặp cùng Zendaya trong phim tình cảm lãng mạn The Drama[169] và cùng Jennifer Lawrence trong phim giật gân Die, My Love.[170] Anh cũng sẽ kiêm nhiệm cả vai trò nhà sản xuất lẫn diễn viên chính trong Primetime, bộ phim hình sự xoay quanh một nhà báo điều tra tội phạm.[171] Ngoài ra, Pattinson sẽ tái hợp với Nolan trong dự án sử thi The Odyssey (2026).[172]
Hoạt động khác
Người mẫu và quảng bá

Pattinson bắt đầu sự nghiệp người mẫu từ năm 12 tuổi và duy trì công việc này trong khoảng 4 năm.[173] Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Closer vào tháng 12 năm 2008, anh cho rằng việc không còn nhiều lời mời làm người mẫu là do ngoại hình nam tính của mình: "Khi mới bắt đầu, tôi khá cao và trông giống con gái, nên nhận được rất nhiều hợp đồng vì thời đó phong cách ái nam ái nữ đang thịnh hành. Nhưng rồi, tôi đoán là mình đã trở nên quá đàn ông, thế là chẳng còn ai thuê nữa. Tôi có lẽ là người có sự nghiệp người mẫu thất bại nhất".[174] Trong khoảng thời gian đó, Pattinson từng làm người mẫu cho nhiều tạp chí tuổi teen tại Anh, cũng như cho thương hiệu thời trang Hackett và nhà thiết kế Nicole Farhi.[18][20] Vào tháng 11 năm 2010, nam diễn viên được Burberry đề nghị một bản hợp đồng trị giá 1 triệu bảng Anh để trở thành gương mặt đại diện thương hiệu, nhưng anh đã từ chối lời mời này.[175]
Tháng 6 năm 2013, Pattinson được công bố là gương mặt đại diện mới cho dòng nước hoa Dior Homme.[176][177] Chỉ ba tháng sau, anh góp mặt trong một đoạn phim ngắn trắng đen quảng cáo cho Dior Homme bên cạnh người mẫu Pháp-Mỹ Camille Rowe.[178] Kể từ đấy, Pattinson đã tham gia nhiều chiến dịch quảng cáo cho dòng nước hoa này trên truyền hình và ấn phẩm thời trang, hợp tác với các đạo diễn Romain Gavras[179] và the Blaze,[180] cũng như các nhiếp ảnh gia Peter Lindbergh,[181] Nan Goldin[179] và Mikael Jansson.[182] Goldin về sau còn xuất bản cuốn sách ảnh mang tên Robert Pattinson: 1000 Lives – tập hợp những khoảnh khắc đáng nhớ từ chiến dịch quảng bá năm 2013.[179] Đến tháng 2 năm 2016, Pattinson trở thành đại sứ đầu tiên của dòng thời trang nam Dior Homme[183] cũng như hiện diện trong nhiều bộ ảnh quảng bá cho thương hiệu do Karl Lagerfeld[184] và Lindbergh thực hiện.[181] Nhìn lại gần một thập kỷ đồng hành cùng Dior vào năm 2020, Pattinson chia sẻ: "Dior mang một vẻ đẹp vượt thời gian; nó khiến người ta có cảm giác rằng thương hiệu này sẽ trường tồn, giống như một tượng đài vậy".[185]
Âm nhạc
Pattinson bắt đầu chơi guitar và dương cầm từ khi lên 4 tuổi, đồng thời anh thường xuyên tự sáng tác nhạc cho riêng mình.[186][187] Anh đã góp giọng trong hai ca khúc thuộc nhạc phim Twilight: "Never Think" do anh đồng viết lời với Sam Bradley,[188] và "Let Me Sign" do Marcus Foster và Bobby Long chấp bút.[189] Đạo diễn Catherine Hardwicke đã đưa những bản thu âm của anh vào bản dựng thô ban đầu của bộ phim mà không cho nam diễn viên biết trước, nhưng về sau Pattinson đồng ý rằng "một trong số những bài hát đó, cụ thể là [...], thực sự khiến cảnh phim trở nên hay hơn rất nhiều".[190][191] Anh cũng trình bày ba ca khúc nguyên bản do Joe Hastings sáng tác trong nhạc phim How to Be.[192][193] Mặc dù có năng khiếu âm nhạc, Pattinson từng chia sẻ: "Tôi chưa bao giờ thật sự thu âm gì cả [...] tôi chỉ chơi nhạc ở mấy quán rượu này nọ thôi". Và khi được hỏi về việc theo đuổi con đường âm nhạc chuyên nghiệp, anh trả lời rằng: "Âm nhạc là phương án dự phòng của tôi, nếu nghiệp diễn không thành".[191] Năm 2010, anh được Hiệp hội Thương nhân Nhạc cụ Quốc gia Hoa Kỳ vinh danh là Nhạc sĩ không ngờ tới có ảnh hưởng nhất ở Hollywood.[194]
Năm 2013, Pattinson chơi guitar trong ca khúc "Birds", nằm trong album Government Plates của ban nhạc Death Grips.[195][196] Tay trống của nhóm Zach Hill đã thu lại phần trình diễn ngẫu hứng của tài tử bằng điện thoại trong một buổi jam session , rồi sau đó sử dụng đoạn nhạc này làm sample cho bản phối chính thức.[195][197] Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 3 năm 2017, nam diễn viên tiết lộ rằng anh sẽ đóng góp âm nhạc cho bộ phim sắp ra mắt của mình, Damsel (2018).[192][198] Vào tháng 2 năm 2019, anh hợp tác với ban nhạc đến từ Nottingham Tindersticks cho ra mắt ca khúc “Willow”, nằm trong album nhạc phim của High Life.[199][200] Tháng 10 năm 2020, Pattinson đã xuất hiện với vai trò khách mời đặc biệt trong màn biểu diễn ca khúc "3 a.m." của nhóm nhạc Haim trên chương trình Late Night with Seth Meyers.[201][202] Anh gọi video FaceTime và đọc diễn cảm đoạn thoại mở đầu của bài hát này.[203][204]
Từ thiện
Pattinson là một người ủng hộ nhiệt thành chiến dịch Stop Sex Trafficking of Children and Young People do tổ chức ECPAT Anh Quốc khởi xướng.[205] Tại sự kiện từ thiện của amfAR diễn ra trong khuôn khổ Liên hoan phim Cannes 2009, anh đã giúp quyên góp được 56.000 USD.[206] Vào tháng 1 năm 2010, Pattinson góp mặt trong chương trình truyền hình gây quỹ từ thiện Hope for Haiti Now: A Global Benefit for Earthquake Relief.[207][208] Đối với GO Campaign, anh đã gây quỹ được 80.000 USD thông qua việc đấu giá chuyến thăm phim trường Hừng đông và sau đó là một buổi trình chiếu riêng tư bộ phim The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 1 dành cho nhà hảo tâm thắng cuộc.[209][210]
Vào tháng 8 năm 2011, Pattinson đã tận dụng bài phát biểu nhận giải tại Teen Choice Awards để nâng cao nhận thức cộng đồng về căn bệnh ung thư, trong đó anh đặc biệt nhấn mạnh đến Cancer Bites – một sáng kiến hỗ trợ những người đang chống chọi với căn bệnh quái ác này.[211][212] Bước sang tháng 8 năm 2013, anh thăm viếng Bệnh viện Nhi đồng Los Angeles – nơi anh dành thời gian gặp gỡ, trò chuyện và tham gia những hoạt động thủ công mỹ nghệ cùng các bệnh nhi.[213][214] Tháng kế tiếp, anh hợp tác với International Medical Corps trong vai trò là một trong những người phản ứng đầu tiên , góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về công tác ứng phó thiên tai và xây dựng khả năng phục hồi sau thảm họa.[215] Pattinson còn tích cực đóng góp trong nhiều phiên đấu giá từ thiện. Vào tháng 11 năm 2013, anh tham dự sự kiện Go Go Gala do GO Campaign tổ chức và đã đấu giá thành công một cây đàn cello được làm từ vật liệu tái chế, với mức giá 5.600 USD.[216][217] Tháng 5 năm 2014, anh quyên tặng chiếc xe đạp cá nhân cho một buổi đấu giá nhằm hỗ trợ Royal Flying Doctor Service – tổ chức cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho người dân tại Outback.[218] Cũng trong năm 2014, nam diễn viên hưởng ứng Thử thách dội nước đá ALS nhằm nâng cao nhận thức về căn bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS), đồng thời anh cũng xuất hiện trong sự kiện gây quỹ thường niên của GO Campaign.[219][220][221] Tháng 10 năm 2015, Pattinson tham gia Chiến dịch Global Goals – một sáng kiến hướng tới mục tiêu xóa bỏ đói nghèo trên toàn thế giới trước năm 2030.[222]
Năm 2015, tài tử trở thành đại sứ đầu tiên của GO Campaign.[223][224] Vào tháng 5 năm 2019, trong khuôn khổ Liên hoan phim Cannes, Pattinson cùng minh tinh Helen Mirren đồng chủ trì một sự kiện từ thiện do Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood (HFPA) đứng ra thực hiện.[225][226] Tại sự kiện trên, họ đã thay mặt HFPA quyên góp 500.000 USD cho tổ chức cứu trợ quốc tế Help Refugees.[227] Trong đợt phong tỏa do COVID-19 đầu tiên vào đầu năm 2020, Pattinson đã quyên góp cho quỹ khẩn cấp của GO Campaign, giúp cung cấp thực phẩm và các sản phẩm vệ sinh thiết yếu cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở London và Los Angeles.[228] Cuối năm đấy, trong quá trình ghi hình Batman: Vạch trần sự thật tại Liverpool, Pattinson đã tạo bất ngờ cho một cậu bé 10 tuổi mắc chứng tự kỷ, người đã chờ đợi hàng giờ liền ở phim trường với hy vọng được gặp anh. Dù điều kiện quay phim không cho phép một cuộc gặp mặt trực tiếp, Pattinson đã gửi tặng cậu bé một gói quà đặc biệt chứa các vật phẩm liên quan đến nhân vật Batman của DC Comics.[229]
Hình tượng công chúng

Sức hấp dẫn ngoại hình của Pattinson đã trở thành chủ đề được bàn luận rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và anh được nhiều nhà phê bình nhắc đến như một biểu tượng sex.[230][231][232] People đã hai lần đưa anh vào danh sách "Người đàn ông gợi cảm nhất thế giới" vào các năm 2008 và 2009.[233][234] Năm 2009, Glamour UK vinh danh Pattinson là "Người đàn ông quyến rũ nhất hành tinh",[235] trong khi AskMen xếp anh vào top 49 người đàn ông có ảnh hưởng nhất thế giới.[236] Vanity Fair thì bình chọn anh là "người đàn ông đẹp trai nhất thế giới", bên cạnh Angelina Jolie là "người phụ nữ đẹp nhất thế giới".[237] Sang năm 2010, cả GQ lẫn Glamour đều chọn Pattinson là "Người đàn ông mặc đẹp nhất", trong đó GQ đánh giá cao phong thái thanh lịch hiện đại và sức hút thời thượng của nam diễn viên.[238][239] People cùng năm đó cũng vinh danh Pattinson trong ấn phẩm đặc biệt "Những người đẹp nhất thế giới".[240] Về mặt tài chính, Pattinson góp mặt trong danh sách “Ngôi sao có thu nhập cao nhất Hollywood năm 2009” của Vanity Fair, với mức thu nhập ước tính khoảng 18 triệu USD.[241][242] Tính đến năm 2025, các bộ phim của tài tử đã thu về hơn 4,7 tỷ USD trên toàn cầu.[243]
Năm 2010, The Sunday Times đã đưa Pattinson vào danh sách "Rich List" – bảng xếp hạng những triệu phú trẻ tại Vương quốc Anh, với giá trị tài sản ròng ước tính khoảng 13 triệu bảng Anh.[244][245] Cùng năm ấy, Time vinh danh anh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới,[246][247] trong khi Forbes liệt nam diễn viên vào danh sách Celebrity 100.[248][249] Cũng trong năm 2010, Pattinson giành hai giải BBC Radio 1 Teen Awards cho Người ăn mặc đẹp nhất và Nam diễn viên xuất sắc nhất.[250][251] Tháng 2 năm 2014, anh xuất hiện trên trang bìa của World Film Locations: Toronto, một cuốn sách chuyên khảo về các bộ phim được quay ở thành phố này.[252]
Năm 2011, Vanity Fair xếp Pattinson ở vị trí thứ 15 trong danh sách "Top 40 ngôi sao hàng đầu Hollywood", viện dẫn mức thu nhập ấn tượng 27,5 triệu USD của anh trong năm 2010.[253] GQ một lần nữa vinh danh anh là "Người đàn ông mặc đẹp nhất" vào năm 2012,[254] còn Glamour thì xướng tên tài tử là "Người đàn ông quyến rũ nhất hành tinh" vào tháng 10 cùng năm.[255] Tới năm 2013, Pattinson đứng thứ hai trong danh sách "Người nổi tiếng dưới 30 tuổi giàu nhất Vương quốc Anh" do Glamour bình chọn, với tổng tài sản ước tính 45 triệu bảng Anh.[256] Anh đồng thời được London Evening Standard ghi nhận là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất thủ đô nước Anh trong các năm 2013 và 2014.[257][258] Tháng 10 năm 2014, anh được Heat xếp hạng 3 trong danh sách thường niên "Ngôi sao trẻ giàu có nhất nước Anh", với mức thu nhập được ước tính lên đến 82,89 triệu USD.[259][260]
Đời tư
Pattinson rất kín tiếng về đời sống cá nhân và nhiều lần bày tỏ sự khó chịu đối với ngành công nghiệp paparazzi cũng như báo lá cải.[261][262][263] Vào năm 2017, anh cho biết mình từng trải qua chứng lo âu, bắt nguồn từ những năm tháng đầu tiên khi trở thành người nổi tiếng.[264][182] Giữa năm 2009, Pattinson được cho là có mối quan hệ tình cảm với bạn diễn trong Chạng vạng Kristen Stewart.[265][266] Đến tháng 7 năm 2012, Stewart thừa nhận mối quan hệ với Pattinson sau khi cô bị bắt gặp thân mật cùng đạo diễn của Bạch Tuyết và gã thợ săn Rupert Sanders, người mà nữ diễn viên đang có mối quan hệ vụng trộm.[267] Sanders, khi ấy đã có gia đình, đã công khai xin lỗi vì vụ việc – Stewart sau đó cũng lên tiếng nhận lỗi.[268] Pattinson và Stewart chia tay một thời gian ngắn nhưng rồi tái hợp vào cuối năm đó.[269] Tuy vậy, cặp đôi chính thức đường ai nấy đi vào tháng 5 năm 2013.[270][271]
Pattinson bắt đầu hẹn hò với nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát FKA Twigs vào tháng 9 năm 2014.[272][273] Cặp đôi đã đính hôn song cuối cùng lại chia tay vào tháng 10 năm 2017.[272][274] Mối tình tan vỡ này đã trở thành nguồn cảm hứng cho Twigs sáng tác nên album phòng thu thứ hai của cô Magdalene (2019).[275] Kể từ năm 2018, Pattinson bắt đầu mối quan hệ với nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát và diễn viên người Anh Suki Waterhouse.[276][277] Tháng 3 năm 2024, họ chào đón cô con gái đầu lòng.[278][279] Bước sang tháng 1 năm 2023, Pattinson chia sẻ về những khó khăn trong quá khứ liên quan đến các chế độ ăn kiêng theo mốt , tiết lộ rằng anh từng thực hiện một chế độ detox kéo dài hai tuần chủ yếu chỉ ăn khoai tây và muối hồng Himalaya.[280][281]
Giải thưởng

Theo trang tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, những bộ phim được đánh giá cao nhất của Pattinson bao gồm Harry Potter và Chiếc cốc lửa (2005), The Childhood of a Leader (2015), Thành phố vàng đã mất (2016), Good Time (2017), High Life (2018), The Lighthouse (2019), Batman: Vạch trần sự thật (2022), Thiếu niên và chim diệc (2023) và Mickey 17 (2025).[186]
Tượng sáp của Pattinson đã được trưng bày tại các bảo tàng Madame Tussauds ở London và Thành phố New York vào năm 2010.[282][283] Pattinson cùng với các bạn diễn trong Chạng vạng là Kristen Stewart và Taylor Lautner đã để lại chữ ký, dấu tay và dấu chân của mình trên bê tông ướt tại Nhà hát Grauman's Chinese vào ngày 3 tháng 11 năm 2011.[284] Năm 2014, nhà thiên văn học người Nga Timur Kryachko đã đặt tên một tiểu hành tinh mà ông phát hiện là 246789 Pattinson nhằm vinh danh nam diễn viên.[285][286]
Danh sách phim
Điện ảnh
Truyền hình
Năm | Tựa đề | Vai diễn | Ghi chú |
---|---|---|---|
2004 | Ring of the Nibelungs | Giselher | Phim điện ảnh truyền hình |
2006 | The Haunted Airman | Toby Jugg | |
2007 | The Bad Mother's Handbook | Daniel Gale |
Danh sách đĩa nhạc
Năm | Tựa đề | Album | Nghệ sĩ | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
2013 | "Birds" | Government Plates | Death Grips | Chơi guitar |
Nhạc phim
Năm | Tựa đề | Nhạc phim |
---|---|---|
2008 | "Never Think" | Twilight |
"Let Me Sign" | ||
2009 | "Chokin' on the Dust" (Part 1) | How to Be |
"Chokin' on the Dust" (Part 2) | ||
"Doin' Fine" | ||
2018 | "Honeybun" | Damsel |
2019 | "Willow" (with tindersticks) | High Life |
Tham khảo
Ghi chú
- ^ Neo-exploitation (tạm dịch tiếng Việt: Tân khai thác) là một dòng phim hoặc phong cách nghệ thuật đương đại tái hiện và làm mới những yếu tố đặc trưng của exploitation films (tức phim khai thác) từ thập niên 1960–80 – vốn nổi tiếng vì bạo lực, tình dục, giật gân và chi phí thấp – nhưng với góc nhìn châm biếm, nghệ thuật hay phản tư xã hội.
Chú thích nguồn
- ^ Morgan, David (ngày 24 tháng 8 năm 2017). "Robert Pattinson". CBS News. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Baty, Emma (ngày 14 tháng 2 năm 2020). "The First Footage of Robert Pattinson as Batman Is Here and It's Hot". Cosmopolitan. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ McArdle, Tommy (ngày 13 tháng 5 năm 2024). "As Robert Pattinson Turns 38, Get to Know His Life as a New Dad and What's Next for 'The Batman' Actor". People. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Duck, Charlotte (ngày 3 tháng 2 năm 2014). "Robert Pattinson... for your eyes only". Glamour UK. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson: 'the attention I get now is just mind-bending'". The Daily Telegraph. ngày 4 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 11.
- ^ Strecker, Erin (ngày 9 tháng 9 năm 2014). "Robert Pattinson's Sister Auditions for U.K. 'X Factor'". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Olya, Gabrielle (ngày 3 tháng 4 năm 2015). "Robert Pattinson and FKA Twigs Engaged: They Want a 'Pub Wedding'!". People. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Stenning 2010, tr. 12.
- ^ Stenning 2010, tr. 13.
- ^ a b Bhattacharya, Sanjiv (ngày 6 tháng 11 năm 2011). "Robert Pattinson interview: Reality bites". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bhattacharya, Sanjiv (ngày 10 tháng 11 năm 2011). "The end finally dawns for Robert Pattinson". The New Zealand Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Oliver 2015, tr. 9.
- ^ Oliver 2015, tr. 7.
- ^ "Twilight star's porn magazine beginnings". The New Zealand Herald. ngày 26 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 17.
- ^ a b Stenning 2010, tr. 18.
- ^ a b Stenning 2010, tr. 21.
- ^ Galloway, Stephen (ngày 28 tháng 5 năm 2014). "Robert Pattinson on Moving Past 'Twilight,' Cold-Calling A-List Directors and Downsizing His Life". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Michalski, Jennifer (ngày 19 tháng 2 năm 2014). "20 Actors Who Started Their Careers As Models". Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson Talks About Being An 'Uncomfortable' Person". Elle. ngày 25 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "'Awards Chatter' Podcast — Robert Pattinson ('Good Time')". The Hollywood Reporter. ngày 5 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Singh, Olivia (ngày 12 tháng 9 năm 2020). "How Robert Pattinson went from a 'Twilight' heartthrob to the star of 'Tenet' and 'The Batman'". Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 19.
- ^ Hirschberg, Lynn (ngày 7 tháng 9 năm 2017). "Robert Pattinson Worked In a Car Wash and Took the Subway While Filming Good Time and No One Noticed". W. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2024.
- ^ Adams 2009, tr. 19.
- ^ "Robert Pattinson: 'the attention I get now is just mind-bending'". The Daily Telegraph. ngày 4 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 18, 20.
- ^ Reilly, Nick (ngày 14 tháng 11 năm 2017). "Robert Pattinson reveals how 'Harry Potter' role stopped him from going to university". NME. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Haramis, Nick; Schorr, Collier; Massacret, Jay (ngày 4 tháng 12 năm 2024). "Is Robert Pattinson the Last True Movie Star?". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "The Curse of the Ring (Ring of the Nibelungs) (2004)". Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ "Reese Witherspoon Gushes About Robert Pattinson". Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
- ^ "Robert Pattinson: Teen heartthrob Robert Pattinson is an English actor, model and musician best known for playing vampire Edward Cullen in Twilight". STV. ngày 12 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2009.
- ^ Sona Charaipotra (ngày 14 tháng 11 năm 2008). "A Night Out With Robert Pattinson". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2009.
- ^ Lisa Dillon (ngày 26 tháng 5 năm 2005). "Almost famous". The Times. UK. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênStubbs
- ^ "Top 20 Rising Stars Under 30". Saturday Night Magazine. ngày 29 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
- ^ "Teen People Names 'Artists of the Year' and 'What's Next'". Starpulse. ngày 2 tháng 11 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
- ^ "Robert Pattinson: 27 Photos & 27 Facts for his 27th B-Day". Mix 107.9. ngày 1 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2019.
- ^ "Review: The Haunted Airman/Dennis Wheatley: A Letter to Posterity". tháng 11 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ "The Haunted Airman – a very artsy film reviewed". Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ "First Editions 1946–1951". denniswheatley.info. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ "The Stage: Review". Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ "The Bad Mother's Handbook". Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ "The Bad Mother's Handbook – rounding off my Robert Pattinson phase". Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ Groves, Nancy (ngày 21 tháng 5 năm 2009). "Observations: Oliver Irving gets by with a little help from his". The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Flint, Hanna (ngày 12 tháng 10 năm 2019). "Every haircut Robert Pattinson has had in a film, ranked". British GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b c Stenning 2010, tr. 44.
- ^ a b Stenning 2010, tr. 47.
- ^ Smith, David (ngày 28 tháng 10 năm 2007). "Were Spain's two artistic legends secret gay lovers?". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Quill, Greg (ngày 22 tháng 5 năm 2009). "Little Ashes: Historical kiss off". Toronto Star. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lyttle, Zoey; Schonfeld, Alexandra (ngày 22 tháng 11 năm 2023). "Every Time Robert Pattinson Criticized the 'Twilight' Saga". People. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Moore, Julia (ngày 21 tháng 11 năm 2023). "'Twilight' Director Recalls Robert Pattinson's 'Makeover' for Role". People. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Gleiberman, Owen (ngày 25 tháng 11 năm 2008). "Twilight". Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 55.
- ^ Stenning 2010, tr. 60.
- ^ Stenning 2010, tr. 58, 61.
- ^ Stenning 2010, tr. 54.
- ^ Dargis, Manohla (ngày 20 tháng 11 năm 2008). "Robert Pattinson and the Love That Dare Not Bare Its Fangs". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Don't say you'll die for me unless you really mean it movie review (2008)". Roger Ebert. ngày 19 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 97.
- ^ Oliver 2015, tr. 39.
- ^ "Where to Watch and Stream". TV Guide. ngày 16 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bierly, Mandi (ngày 6 tháng 10 năm 2009). "'Robsessed' documentary: More interested in Pattinson or his fans?". Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Fernández, Alexia (ngày 3 tháng 4 năm 2019). "Robert Pattinson Recently Rewatched The Twilight Saga: New Moon: I Have 'Very Warm Memories'". People. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Robey, Tim (ngày 19 tháng 11 năm 2009). "The Twilight Saga: New Moon, review". The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Corliss, Richard (ngày 29 tháng 11 năm 2009). "Box Office: New Moon Takes a Hit on The Blind Side". Time. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têns813
- ^ Lealos, Shawn S. (ngày 5 tháng 9 năm 2020). "The Highest Grossing Romance Film For Each Year Of The 2000s". Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ "New Moon Review". Arizona Republic. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ O'Sullivan, Michael (ngày 20 tháng 11 năm 2009). "Movie review: The Twilight Saga: New Moon". The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 111–112.
- ^ "Robert Pattinson Finds New Blood". CBS News. ngày 9 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.
- ^ Compolongo, Gabrielle (ngày 1 tháng 3 năm 2010). "Robert Pattinson Interview Remember Me". Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stenning 2010, tr. 114.
- ^ Coyle, Jake (ngày 12 tháng 3 năm 2010). "Pattinson still brooding in 'Remember Me'". Lakeland Ledger. Associated Press. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.
- ^ Pols, Mary (ngày 11 tháng 3 năm 2010). "Remember Me: Young Love, Hold the Vampires". Time. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.
- ^ Powers, John (ngày 19 tháng 5 năm 2014). "The Fresh Faces and Buzzy Performances at Cannes This Weekend". Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Scott, A.O. (ngày 12 tháng 6 năm 2014). "'The Rover,' a Drama With Guy Pearce and Robert Pattinson". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Foundas, Scott (ngày 17 tháng 5 năm 2014). "Film Review: 'The Rover'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Edelstein, David (ngày 27 tháng 2 năm 2015). "Maps to the Stars Is a Hollywood Psychodrama Played to Perfection". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Oliver 2015, tr. 167.
- ^ Oliver 2015, tr. 173.
- ^ Oliver 2015, tr. 172.
- ^ "Cannes 2014, Maps to the Stars, review: 'a nightmare you don't want to wake from'". The Daily Telegraph. ngày 18 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Oliver 2015, tr. 178.
- ^ McDonald, John (ngày 2 tháng 6 năm 2016). "Movie Review: Queen of the Desert (2015)". Australian Financial Review. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Child, Ben (ngày 15 tháng 8 năm 2012). "Robert Pattinson to play Lawrence of Arabia". The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Macnab, Geoffrey (ngày 6 tháng 2 năm 2015). "Nicole Kidman is like a feminist Lawrence of Arabia in Werner Herzog's new film". The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rooney, David (ngày 6 tháng 2 năm 2015). "'Queen of the Desert': Berlin Review". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson and Dane Dehaan shine in Anton Corbijn's James Dean biopic [Review]". South China Morning Post. ngày 3 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Oliver 2015, tr. 178–179.
- ^ Lodge, Guy (ngày 9 tháng 2 năm 2015). "Berlin Film Review: 'Life'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rooney, David (ngày 9 tháng 2 năm 2015). "'Life': Berlin Review". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Setoodeh, Ramin (ngày 21 tháng 8 năm 2014). "Berenice Bejo Joins Robert Pattinson Drama 'The Childhood of a Leader' (exclusive)". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Setoodeh, Ramin (ngày 10 tháng 12 năm 2013). "Robert Pattinson to Co-Star in 'The Childhood of a Leader' (exclusive)". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Etemesi, Philip (ngày 30 tháng 1 năm 2020). "Robert Pattinson: 10 Performances That Prove He's One Of The Era's Best Actors". Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lodge, Guy (ngày 7 tháng 9 năm 2015). "Venice Film Review: 'The Childhood of a Leader'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bradshaw, Peter (ngày 3 tháng 12 năm 2018). "The Childhood of a Leader review – stunning origins story for a future fascist". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Marshall, Lee; Tabbara, Mona; Baughan, Nikki; Dalton, Ben; Romney, Jonathan (ngày 20 tháng 2 năm 2025). "'Childhood Of A Leader': Review". Screen Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Siegel, Tatiana; Ford, Rebecca (ngày 1 tháng 9 năm 2016). "Charlie Hunnam Drama 'Lost City of Z' Lands at Amazon Studios (Exclusive)". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Zeitchik, Steven (ngày 17 tháng 10 năm 2016). "Director James Gray goes on his own search while creating 'The Lost City of Z'". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Smith, Nigel M (ngày 3 tháng 8 năm 2016). "James Gray's The Lost City of Z to close New York film festival". The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kilday, Gregg (ngày 3 tháng 8 năm 2016). "James Gray's 'The Lost City of Z' to Close New York Film Festival". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Oliver 2015, tr. 184.
- ^ Oliver 2015, tr. 226.
- ^ Lee, Ashley (ngày 15 tháng 10 năm 2016). "Robert Pattinson Really Hated His 'Disgusting' 'Lost City of Z' Beard". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lapitan, Emilio Gabriel (ngày 19 tháng 6 năm 2022). "8 Underrated Performances From Modern Box Office Bombs". Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Reinstein, Mara (ngày 13 tháng 4 năm 2017). "'The Lost City of Z' Review: Charlie Hunnam, Robert Pattinson Are Compelling". Us Weekly. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Ide, Wendy (ngày 21 tháng 3 năm 2018). "The Lost City of Z review – lush jungle adventure". The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kempton, Sara (ngày 18 tháng 11 năm 2017). "Robert Pattinson Based His Good Time Character on a Man Who Lives in a Hole". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Shapiro, Ari (ngày 23 tháng 8 năm 2017). "'Good Time' Filmmakers Wanted To Make A Movie That 'Actually Feels Dangerous'". NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lawson, Richard (ngày 25 tháng 5 năm 2017). "Robert Pattinson Pulls a Kristen Stewart in His Cannes Hit Good Time". Vanity Fair. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lodge, Guy (ngày 25 tháng 5 năm 2017). "Film Review: Robert Pattinson in 'Good Time'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kohn, Eric (ngày 25 tháng 5 năm 2017). "Robert Pattinson Gives a Career-Best Performance in the Safdie Brothers' 'Good Time'". IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rooney, David (ngày 25 tháng 5 năm 2017). "'Good Time': Film Review". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lewis, Hilary (ngày 3 tháng 3 năm 2018). "Spirit Awards: Timothee Chalamet Wins Best Male Lead". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Harris, Hunter (ngày 9 tháng 8 năm 2017). "Robert Pattinson Does a Bonkers Gollum Voice in His Short Film for GQ". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Brodesser-Akner, Taffy (ngày 9 tháng 8 năm 2017). "Robert Pattinson on Escaping the Paparazzi, His Past, and People Who Keep Asking Questions". GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Gleiberman, Owen (ngày 24 tháng 1 năm 2018). "Film Review: 'Damsel'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Romney, Jonathan (ngày 16 tháng 2 năm 2018). "Damsel review – Robert Pattinson goes a-crooning in twisty Old West quest drama". The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Sims, David (ngày 23 tháng 6 năm 2018). "'Damsel' Is a One-Note Satire of Classic Westerns". The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Schwartz, Dana (ngày 18 tháng 6 năm 2018). "'Damsel' is bizarre, beautiful, and so much goddam fun: EW review". Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Wiseman, Andreas (ngày 7 tháng 9 năm 2018). "Claire Denis On Buzz Sci-Fi 'High Life', Her 'Knight' Robert Pattinson, & Coping With Personal Loss". Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Pulliam-Moore, Charles (ngày 5 tháng 4 năm 2019). "Claire Denis' High Life Gets Lost in the Void of Its Own Imagination". Gizmodo. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Roxborough, Scott (ngày 4 tháng 11 năm 2017). "Why Robert Pattinson Was the Perfect Actor for Claire Denis' Sci-Fi Movie". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Guimarães, Elisa (ngày 2 tháng 5 năm 2022). "'High Life' Ending Explained: Robert Pattinson Jumps Into the Unthinkable". Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Empey & Kilbourn 2023, tr. 249.
- ^ Hunter, Allan (ngày 10 tháng 9 năm 2018). "'High Life': Toronto Review". Screen Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bailey, Jason (ngày 10 tháng 9 năm 2018). "'High Life': Claire Denis Makes Strange, Scary, Kinky Sci-Fi With Robert Pattinson". The Playlist. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Antrim, Taylor (ngày 21 tháng 10 năm 2019). "Behind the Scenes of 'The Lighthouse,' the Strangest, Spookiest Movie of 2019". Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rose, Steve (ngày 25 tháng 1 năm 2020). "The Lighthouse director Robert Eggers on storms, seagulls and spraying Robert Pattinson with a hose". The Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Keslassy, Elsa (ngày 23 tháng 4 năm 2019). "Cannes: Directors' Fortnight Unveils Lineup". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Thompson, Anne (ngày 20 tháng 5 năm 2019). "'The Lighthouse' Ignites Cannes, Along With Robert Pattinson and Willem Dafoe Oscar Talk". IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bradshaw, Peter (ngày 31 tháng 1 năm 2020). "The Lighthouse review – Robert Pattinson shines in sublime maritime nightmare". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Sharf, Zack (ngày 9 tháng 2 năm 2020). "Adam Sandler Wins Best Actor at the Spirit Awards". IndieWire. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Anderson, Ariston (ngày 25 tháng 7 năm 2019). "Venice Competition to Include Roman Polanski, Steven Soderbergh, James Gray's 'Ad Astra', Todd Phillips' 'Joker'". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Sims, David (ngày 11 tháng 10 năm 2019). "'The King' Sacrifices the Best of Fact and Fiction". The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Malkin, Marc (ngày 3 tháng 10 năm 2019). "'The King' Director David Michôd on Robert Pattinson's Transformation Into the Dauphin of France". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Donaldson, Kayleigh (ngày 3 tháng 11 năm 2019). "Robert Pattinson Has The Most Ridiculous French Accent In Netflix's The King". Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Han, Karen (ngày 27 tháng 8 năm 2019). "The trailer for Netflix's The King showcases Timothée Chalamet and Robert Pattinson". Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Harris, Hunter (ngày 14 tháng 10 năm 2019). "Robert Pattinson's King Performance Is Hilariously Unhinged". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Singh-Kurtz, Sangeeta (ngày 5 tháng 11 năm 2019). "And the Oscar Goes to Robert Pattinson's French Accent". The Cut. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Hans, Simran (ngày 13 tháng 10 năm 2019). "The King review – Timothée Chalamet is all at sea as Prince Hal". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Loughrey, Clarisse (ngày 9 tháng 10 năm 2019). "The King review: Timothée Chalamet stars in an exhaustingly solemn take on Shakespeare". The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Travers, Peter (ngày 6 tháng 8 năm 2020). "'Waiting for the Barbarians' Review: An A-List Literary Adaptation Limps to Life". Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Windsor, Harry (ngày 6 tháng 9 năm 2019). "Waiting for the Barbarians review – Johnny Depp turns up the heat in the desert". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ Hoeij, Boyd van (ngày 6 tháng 9 năm 2019). "'Waiting for the Barbarians': Film Review". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Kiang, Jessica (ngày 21 tháng 8 năm 2020). "'Tenet' Review: Christopher Nolan's Time-Bending Take on James Bond". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Baron, Zach (ngày 12 tháng 5 năm 2020). "Robert Pattinson: A Dispatch From Isolation". GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Jones, Nate (ngày 26 tháng 2 năm 2024). "A Beat-by-Beat Explanation of What Happens in Tenet". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kermode, Mark (ngày 13 tháng 9 năm 2020). "The Devil All the Time review – deliciously ripe gothic melodrama". The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Chang, Justin (ngày 18 tháng 9 năm 2020). "Everyone's A Sinner In 'The Devil All The Time'". NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Collins, K. Austin (ngày 17 tháng 9 năm 2020). "'The Devil All the Time': A Southern Gothic-Lite, All Tied Up in Knots". Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Gleiberman, Owen (ngày 11 tháng 9 năm 2020). "'The Devil All the Time' Review: Tom Holland and Robert Pattinson in a Netflix Drama of Small-Town Sin". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kroll, Justin (ngày 24 tháng 5 năm 2021). "Robert Pattinson Signs First-Look Deal With Warner Bros, New Line, Warner Bros Television & HBO Max". Deadline.com. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Debruge, Peter (ngày 28 tháng 2 năm 2022). "'The Batman' Review: A Tortured Robert Pattinson Goes Even Darker Than 'The Dark Knight'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Sharf, Zack (ngày 4 tháng 3 năm 2022). "'The Batman' Guide: 15 Movies and Comics That Inspired Robert Pattinson and Matt Reeves". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Hermanns, Grant (ngày 26 tháng 1 năm 2022). "Robert Pattinson The Batman Casting Backlash Explained By Director". Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rooney, David (ngày 28 tháng 2 năm 2022). "Robert Pattinson in 'The Batman': Film Review". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Reul, Katie (ngày 7 tháng 12 năm 2023). "Robert Pattinson Was So Excited About The Boy and the Heron He Nailed His Voice Pre-Recording". IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Tartaglione, Nancy (ngày 15 tháng 4 năm 2024). "'Godzilla X Kong' Roars Past $436M WW; 'Kung Fu Panda 4' Tops $450M; Latest 'Detective Conan' Huge In Japan – International Box Office". Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Hayao Miyazaki's 'The Boy and the Heron' hits Indian theaters: What you need to know". The Statesman. ngày 10 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Complex, Valerie (ngày 18 tháng 1 năm 2023). "Robert Pattinson's Production Company Icki Eneo Arlo And Spacemaker Productions Sign On To Sebastian Silva Film 'Rotting In The Sun'". Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 21 tháng 2 năm 2024). "Bong Joon-Ho's 'Mickey 17' Plots January 2025 Release Timed To Lunar New Year". Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bradshaw, Peter (ngày 15 tháng 2 năm 2025). "Mickey 17 review – Robert Pattinson proves expendable in Bong Joon-ho's eerily cheery cloning drama". The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rooney, David (ngày 15 tháng 2 năm 2025). "'Mickey 17' Review: An Amusing Robert Pattinson Gamely Tackles a Double Role in Bong Joon Ho's Scattershot Sci-Fi Follow-Up to 'Parasite'". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Ehrlich, David (ngày 15 tháng 2 năm 2025). "'Mickey 17' Review: Robert Pattinson and Robert Pattinson Star in Bong Joon Ho's Best English-Language Film So Far". Indiewire. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ McArdle, Tommy (ngày 19 tháng 11 năm 2024). "Zendaya and Robert Pattinson Film New Movie 'The Drama' Together in Boston". People. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Grobar, Matt (ngày 13 tháng 11 năm 2024). "'Die, My Love' First Look: Jennifer Lawrence, Robert Pattinson & LaKeith Stanfield Topline New Thriller From Lynne Ramsay". Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rubin, Rebbeca (ngày 22 tháng 10 năm 2024). "Robert Pattinson, 'Ren Faire' Director Lance Oppenheim to Develop True Crime Film 'Primetime' for A24". Variety. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Frank, Jason P. (ngày 17 tháng 2 năm 2025). "Christopher Nolan to Bring The Odyssey to the Big Screen". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Sanchez, Karizza (ngày 26 tháng 7 năm 2013). "15 Famous Dudes Who Used to Be Models". Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Odell, Amy (ngày 10 tháng 12 năm 2008). "Why Robert Pattinson's Modeling Career Failed". The Cut. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ King, Joyann (ngày 8 tháng 11 năm 2010). "Doutzen Kroes Gets Married to DJ Sunnery Jones". Harper's Bazaar. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Niven-Phillips, Lisa (ngày 12 tháng 6 năm 2013). "Robert Pattinson For Dior". British Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Travers, Penny (ngày 18 tháng 6 năm 2013). "First look! Robert Pattinson for Dior Homme". Cosmopolitan. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Sauvalle, Julien (ngày 16 tháng 9 năm 2013). "Watch: Robert Pattinson For 'Dior Homme' (Full Commercial)". Out. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b c Grinnell, SunHee (ngày 12 tháng 2 năm 2014). "Photos: Robert Pattinson Is Living 1,000 Lives in Dior". Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Regensdorf, Laura (ngày 25 tháng 1 năm 2020). "Robert Pattinson, Weirdo of Auteur Cinema, Gets Romantic Again". Vanity Fair. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Rich, Katey; Marinai, Chiara (ngày 27 tháng 11 năm 2019). "The Quintessentially Modern Peter Lindbergh". Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Walsh, Savannah (ngày 21 tháng 1 năm 2025). "Robert Pattinson on Harnessing His Anxiety, Very Ambitious Movies, and Why He's Uninterested in Going to Space". Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Davis, Johnny (ngày 20 tháng 1 năm 2025). "'George Clooney Was the Best-Smelling Batman': Robert Pattinson on Scent, Success & Seagulls". Esquire. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Cusumano, Katherine (ngày 24 tháng 3 năm 2017). "Robert Pattinson, Dior's Man of the Moment, Steps in Front of the Camera for Karl Lagerfeld". W. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ Stansfield, Ted (ngày 28 tháng 2 năm 2020). "Robert Pattinson on His Dior Homme Fragrance and Filming The Lighthouse". Another. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b "Robert Pattinson". Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson is working on some music". Dazed. ngày 6 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Perpetua, Matthew (ngày 20 tháng 9 năm 2011). "Sources: 'Twilight' Star Robert Pattinson Recording 'Guitar-Based' Album". Rolling Stone. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Britain's Bobby Long: Modern-day Bob Dylan?". CBS News. ngày 8 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Oliver 2015, tr. 88.
- ^ a b McIntyre, Gina (ngày 9 tháng 10 năm 2008). "Robert Pattinson on his 'Twilight' songs: 'Music is my backup plan if acting fails'". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Benitez-Eves, Tina (ngày 12 tháng 7 năm 2023). "5 Songs You Didn't Know Robert Pattinson Wrote". American Songwriter. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson Sings Three Songs in Indie Flick How to Be". Us Magazine. ngày 11 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson Awarded Musical Honour". MTV News. ngày 7 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Minsker, Evan (ngày 29 tháng 11 năm 2014). "Death Grips' "Birds" Features Robert Pattinson on Guitar". Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Cliff, Aimee (ngày 30 tháng 11 năm 2014). "Whoa, Robert Pattinson Played Guitar On A Death Grips Song". The Fader. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Frydenlund, Zach (ngày 1 tháng 12 năm 2014). "Robert Pattinson Played Guitar on Death Grips' Song "Bird..." Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Rob's weird world". Metro News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Clarke, Patrick (ngày 28 tháng 2 năm 2019). "Listen to Robert Pattinson's new single 'Willow' in collaboration with tindersticks". NME. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rettig, James (ngày 28 tháng 2 năm 2019). ""Willow" Video (Feat. Robert Pattinson)". Stereogum. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Shaffer, Claire (ngày 23 tháng 10 năm 2020). "Haim Enlist Robert Pattinson for '3 a.m.' Performance on 'Seth Meyers'". Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Curto, Justin (ngày 23 tháng 10 năm 2020). "Robert Pattinson Plays an Emotional Vampire in Haim's '3 A.M.' Performance". Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Daly, Rhian (ngày 23 tháng 10 năm 2020). "Watch 'emotional vampire' Robert Pattinson join Haim for 'Seth Meyers' appearance". NME. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rowley, Glenn (ngày 23 tháng 10 năm 2020). "Robert Pattinson Calls Haim at '3 AM' During Their Spooky 'Seth Meyers' Performance: Watch". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Stars take a hands-on approach to aid charity". The Scotsman. ngày 9 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "The sexiest celebrity auction". New York Daily News. ngày 22 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Stars come out for Haiti benefit". BBC News. ngày 23 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Telethon for Haiti draws Hollywood glitterati". Deccan Herald. ngày 23 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Schillaci, Sophie (ngày 24 tháng 10 năm 2011). "'Twilight's' Robert Pattinson Charity Donation to Help Educate Teen Girls in Cambodia". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Brinon, Jacques (ngày 25 tháng 10 năm 2011). "Robert Pattinson auctions private 'Twilight' screening for charity". Toronto Star. Associated Press. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Goldberg, Eleanor (ngày 8 tháng 8 năm 2011). "Robert Pattinson Takes A Bite Out Of Blood Cancers". HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Schillaci, Sophie; Godley, Chris (ngày 7 tháng 8 năm 2011). "Teen Choice Awards 2011: Best and Worst Moments". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kornowski, Liat (ngày 24 tháng 8 năm 2013). "Robert Pattinson Does Something Really, Really Sweet". HuffPost. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Rob Pattinson Does Arts and Crafts at Children's Hospital". E! Online. ngày 23 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Aossey, Nancy; Miller, Sienna (ngày 25 tháng 9 năm 2013). "Redefining First Response". HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Khatchatourian, Maane (ngày 15 tháng 11 năm 2013). "Robert Pattinson Toasted, Bids $5,600 on Recycled Cello at GO GO Gala". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Olivier, Ellen (ngày 15 tháng 11 năm 2013). "Robert Pattinson, Adam Shankman, Beth Behrs pitch in at Go Go Gala". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Hollywood star's gift". Royal Flying Doctor Service. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Marquina, Sierra (ngày 21 tháng 8 năm 2014). "Robert Pattinson Completes the Ice Bucket Challenge: Watch". Us Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Grossman, Samantha (ngày 21 tháng 8 năm 2014). "Watch: Robert Pattinson Accepted Zac Efron's Ice Bucket Challenge Nomination". Time. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "GQ Addresses: Robert Pattinson's Off-Kilter Bowl Cut: The GQ Eye: GQ on Style: GQ". GQ. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Joe Jonas and Gigi Hadid have a good cryo together; Tom Brady and Gisele Bundchen may do a down and out". New York Daily News (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Jackson, Angelique (ngày 17 tháng 11 năm 2019). "Robert Pattinson Praises Fans for Raising Funds for Go Campaign: 'It's So Sweet'". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Bhatti, Umber (ngày 17 tháng 11 năm 2019). "Robert Pattinson, Lily Collins Co-Host 13th Annual GO Campaign Gala". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Saperstein, Pat (ngày 20 tháng 5 năm 2019). "Robert Pattinson Helps HFPA Donate $500,000 to Refugee Organization at Cannes Event". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Gardner, Chris (ngày 19 tháng 5 năm 2019). "Cannes: HFPA Donates $500,000 to Help Refugees With Aid From Helen Mirren, Robert Pattinson". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Hammond, Pete (ngày 20 tháng 5 năm 2019). "Hollywood Foreign Press Throws Annual Bash And Gives $500,000 To 'Help Refugees' Organization – Cannes". Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Lee, Janet W. (ngày 25 tháng 10 năm 2020). "Robert Pattinson Celebrates 'Real-Life Heroes' for COVID-19 Relief Services". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Kemp, Ella (ngày 6 tháng 11 năm 2020). "Robert Pattinson surprised an autistic 'Batman' fan with a special gift" (bằng tiếng Anh). NME. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
- ^ Fear, David (ngày 8 tháng 3 năm 2025). "Robert Pattinson Is the 21st Century's Great Movie Weirdo". Rolling Stone. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Radcliffe: 'Pattinson is a sex symbol'". Digital Spy. ngày 13 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson sends the girls on the beach senseless; the wizard wows 'em in the theatres". Vancouver Sun. ngày 13 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "2008's Sexiest Man Alive". People. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "2009's Sexiest Man Alive". People. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Sexiest Men Alive No. 1". Glamour UK. ngày 5 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Top 49 Most Influential Men". AskMen. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson the Most Handsome Man in the World". Vanity Fair. ngày 16 tháng 6 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson named GQ's Best-Dressed Man". Glamour UK. tháng 2 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson And Cheryl Cole Are Named The Best Dressed of 2010". Entertainment Wise. Giant Digital. ngày 6 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Staff (ngày 28 tháng 4 năm 2010). "World's Most Beautiful". People. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Newcomb, Peter (tháng 3 năm 2010). "Peter Newcomb on the Top Hollywood Earners of 2009". Vanity Fair. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Johnny Depp is highest paid actor with £21m deal for next Pirates film". The Daily Telegraph. ngày 17 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Top 100 Stars in Leading Roles at the Worldwide Box Office". The Numbers. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Harry Potter stars top young rich list". The Sydney Morning Herald. ngày 27 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Sunday Times Rich List 2010: Harry Potter stars dominate top 20 young millionaires list". The Daily Telegraph. ngày 24 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Weitz, Chris (ngày 29 tháng 4 năm 2010). "The 2010 Time 100: Robert Pattinson". Time. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Time Magazine's Top 100". CBS News. ngày 29 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson reaches Forbes Celebrity Power List". The Guardian. ngày 29 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson named one of the most powerful celebrities in the world". The Daily Telegraph. ngày 29 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Fearne tries to claim Robert Pattinson's Best Dressed and Best Actor Teen Awards". BBC News. ngày 14 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Radio 1's Teen Awards winners announced". BBC News. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Ue, Tom (2014). World Film Locations: Toronto. Intellect Books. tr. cover. ISBN 978-1-78320-287-4.
- ^ Newcomb, Peter (tháng 3 năm 2011). "Hollywood's Top 40". Vanity Fair. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson: GQ Best Dressed Man 2012". GQ. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Henry Cavill voted world's sexiest man in Glamour poll". BBC News. ngày 2 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Powell, Hannah Lyons; Selby, Jenn (ngày 22 tháng 4 năm 2013). "Richest UK Celebs Under 30". Glamour. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "The Power 1000 – London's most influential people 2013". London Evening Standard. ngày 1 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "The 1000 – London's most influential people 2014: The Arts". London Evening Standard. ngày 1 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "One Direction Beat Out Daniel Radcliffe to Top U.K. Under 30 Rich List". The Hollywood Reporter. ngày 21 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rahman, Abid (ngày 22 tháng 10 năm 2014). "One Direction Tops U.K. Under 30 Rich List". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Russian, Ale (ngày 9 tháng 8 năm 2017). "Robert Pattinson Talks Getting Married, Therapy and Twilight". People. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Herald online (ngày 20 tháng 8 năm 2012). "Twitter war over actor's Robert Pattinson 'douche' rant". New Zealand Herald. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Weinberg, Lindsay (ngày 26 tháng 2 năm 2020). "Robert Pattinson Reveals Fashion Regrets and 'Terror' of Paparazzi". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Day, Elizabeth (ngày 3 tháng 11 năm 2017). "Robert Pattinson: 'Without therapy I don't know how you're supposed to do life'". The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Twilight vampire Robert Pattinson and co-star caught on camera". The Daily Telegraph. ngày 19 tháng 8 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Reitz, Collette (ngày 15 tháng 2 năm 2024). "Kristen Stewart's Dating History: From Robert Pattinson to Dylan Meyer". People. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Kristen Stewart Cheats on Robert Pattinson With Rupert Sanders: See All of the Shocking Pics From Their Fling!". Us Weekly. ngày 30 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Schwartz, Alison; Jordan, Julie (ngày 25 tháng 7 năm 2012). "Kristen Stewart's Apology to Robert Pattinson for Cheating". People. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Donnelly, Matt (ngày 19 tháng 9 năm 2012). "Robert Pattinson and Kristen Stewart: Reconciling after reunion?". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Rob Moves Stuff Out of Kristen's House". E!. ngày 20 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Hurtado, Alexandra (ngày 21 tháng 11 năm 2023). "Kristen Stewart and Robert Pattinson's Relationship: A Look Back". People. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ a b Phillips, Demi (ngày 11 tháng 12 năm 2023). "Robert Pattinson & FKA Twigs Relationship Timeline". HotNewHipHop. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Tingley, Anna (ngày 25 tháng 7 năm 2017). "Robert Pattinson Tells Howard Stern He's 'Kind Of' Engaged to FKA Twigs". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Nardino, Meredith (ngày 27 tháng 1 năm 2021). "FKA Twigs Suffered Racism During Robert Pattinson Engagement". Us Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "FKA Twigs Speaks Out About "Unmeshing" From Robert Pattinson". E!. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Gibson, Kelsie (ngày 3 tháng 3 năm 2022). "Robert Pattinson and Suki Waterhouse's Relationship Timeline". People. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Wittmer, Carrie (ngày 30 tháng 12 năm 2022). "Robert Pattinson and Suki Waterhouse's Meet-Cute Sounds Like a Rom-Com". Glamour. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Aizin, Rebecca (ngày 5 tháng 4 năm 2024). "All About Suki Waterhouse and Robert Pattinson's Baby: From Pregnancy to First Photo". People. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Rosseinsky, Katie (ngày 14 tháng 2 năm 2025). "Robert Pattinson reveals the sweet way fatherhood has changed his life". The Independent. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Ritschel, Chelsea (ngày 20 tháng 1 năm 2023). "Robert Pattinson reveals he once ate nothing but potatoes". The Independent. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Jones, Alexandra (ngày 19 tháng 1 năm 2023). "The Business of Being Robert Pattinson". Evening Standard. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Robert Pattinson joins Madame Tussauds waxworks". The Daily Telegraph. ngày 25 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2020.
- ^ "Robert Pattinson to join Madame Tussauds". Madame Tussauds. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ "'Breaking Dawn' stars leave handprints, footprints in Hollywood". Los Angeles Times. ngày 3 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2014.
- ^ Cole, Susan (ngày 1 tháng 6 năm 2018). "20 Crazy Secrets About The Cast Of Twilight". Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
- ^ Jeunesse, Marilyn La (ngày 13 tháng 5 năm 2022). "13 surprising things you probably didn't know about Robert Pattinson". Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2025.
Thư mục
- Adams, Isabelle (2009). Robert Pattinson. HarperCollins. ISBN 978-0-06-193583-1.
- Empey, Julia A.; Kilbourn, Russell J.A. (2023). Feminist Posthumanism in Contemporary Science Fiction Film and Media. Bloomsbury Publishing. ISBN 978-1-5013-9842-1.
- Oliver, Sarah (2015). Robert Pattinson. John Blake Publishing. ISBN 978-1-78418-603-6.
- Stenning, Paul (2010). The Robert Pattinson Album. Plexus. ISBN 978-0859654388.
Liên kết ngoài

- Robert Pattinson trên IMDb