Trịnh Kinh 鄭經 | |
---|---|
![]() | |
Sinh | 25 tháng 10 năm 1642[1] Nam An, Phúc Kiến, Trung Quốc[2] |
Mất | 17 tháng 3 năm 1681[3] Đài Nam, Đài Loan |
Quốc tịch | Vương quốc Đông Ninh |
Tên khác | Khâm Xá (錦舍) |
Nghề nghiệp | Thủ lĩnh quân sự, vua |
Chức vị | Duyên Bình Quận vương (延平郡王)[4] hay Triều Văn Vương |
Kế nhiệm | Trịnh Khắc Sảng (鄭克塽) |
Phối ngẫu | Đường Thị (唐氏) Chiêu Nương (昭娘)[5] |
Con cái | Trịnh Khắc Sảng (鄭克塽) Trịnh Khắc Tang (鄭克臧) Trịnh Khắc Cử (鄭克舉) Trịnh Khắc Quân (鄭克均) Trịnh Khắc Bạt (鄭克拔) Trịnh Khắc Thương (鄭克商) Trịnh Khắc Kỳ (鄭克圻) Trịnh Khắc Xác (鄭克塙)[3] |
Cha mẹ | Trịnh Thành Công (Cha), Đổng thị (Mẹ)[6] |
Người thân | Trịnh Chi Long (鄭芝龍) (Ông) Tagawa (Bà) Tagawa Shichizaemon (Cậu) |
Trịnh Kinh (chữ Hán phồn thể: 鄭經; giản thể: 郑经; bính âm: Zhèng Jìng) (1642 – 1681), tên Cẩm, tự Hiền Chi, Nguyên Chi, hiệu Thức Thiên, biệt danh Cẩm Xá, là con trưởng của Trịnh Thành Công, người thống trị Đài Loan thứ hai của vương triều Minh Trịnh và là Quốc chủ Đông Ninh, một trong những lực lượng chống Thanh của nhà Nam Minh.
Tiểu sử
Tranh đoạt quyền thừa kế
Trịnh Kinh sinh ngày 25 tháng 10 năm Sùng Trinh thứ 15 (1642) tại huyện Nam An tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Lúc nhỏ thông minh đỉnh ngộ, ham thích văn học, là người nhân đức, rất được lòng dân, về sau kết hôn cùng con gái của quan Thượng thư Đường Hiển Duyệt. Thời Trịnh Thành Công bốn lần xuất dương chinh chiến, Trịnh Kinh cùng mẹ là Đổng Thị ở lại Kim Môn, Hạ Môn trù tính lo liệu lương thực và cung cấp quân nhu.
Năm Vĩnh Lịch thứ 15 (1661) Trịnh Thành Công đông chinh Đài Loan, quan trấn thủ Hồng Húc, trước ở dưới trướng Đề đốc Hoàng Đình trú đóng tại Kim Môn, Hạ Môn tới phụ giúp Trịnh Kinh phòng thủ Hạ Môn, trong lúc ấy Trịnh Kinh bèn nhân cơ hội tư thông với người vú nuôi của em trai là Chiêu Nương, kết quả của mối tình vụng trộm ấy đã hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Trịnh Khắc Tang.[7] Sĩ đại phu đương thời đều cho là loạn luân,[8] Trịnh Thành Công nghe được tin ấy bèn hạ lệnh xử tử Chiêu Nương, Trịnh Kinh từ chối giao nộp, đem giấu người vú nuôi ấy đi.[9] Về sau, cha vợ của Trịnh Kinh là Đường Hiển Duyệt tố cáo, khiến Trịnh Thành Công nổi cơn thịnh nộ, lập tức triệu con thứ là Trịnh Thái tới thay thế Trịnh Kinh phòng thủ hai đảo Kim Môn và Hạ Môn. Trịnh Kinh bèn hạ lệnh hành quyết Hồng Húc, từ chối tuân theo mệnh lệnh của cha, bắt đầu khẩn trương xúc tiến mối quan hệ Kim Môn, Hạ Môn và Đài Loan.[10]
Ngày 8 tháng 5 ÂL năm Vĩnh Lịch thứ 16 (23 tháng 6 năm 1662), Trịnh Thành Công tạ thế tại thành Zeelandia, bọn Hoàng Chiêu, Tiêu Củng Thần lấy cớ Trịnh Kinh đắc tội với cha, bèn ủng hộ lập người em trai thứ năm của Trịnh Thành Công là Trịnh Thế Tập làm Đại Lý Chiêu Thảo Đại tướng quân. Trong khi ấy, Trịnh Kinh tại Hạ Môn tuyên bố chính mình mới là người kế thừa hợp pháp, tập phong Duyên Bình Quận vương, Trịnh Thế Tập mang quân chống lại, vương triều họ Trịnh kể từ đó bị chia làm hai phe.[11]
Trịnh Kinh hiểu được mối đe dọa của quân Thanh, đề xuất gia nhập vào hệ thống triều cống của nhà Thanh và giao thiệp với vua Khang Hy, lợi dụng cơ hội đình chiến. Vào ngày 1 tháng 11 ÂL năm Vĩnh Lịch thứ 16 (11 tháng 12 năm 1662) Trịnh Kinh chỉ huy quân đội tiến công Đài Loan,[12] bộ tướng Trịnh Thế Tập là Hoàng Chiêu trúng loạn tên tử trận, quân đội dưới quyền Trịnh Thế Tập còn lại đều đầu hàng, Trịnh Kinh sau khi giành thắng lợi, tiến vào thành An Bình, chém đầu Tiêu Củng Thần và để Trịnh Thế Tập trở về Hạ Môn, kết thúc cuộc nội chiến.
Rút về Đài Loan
Tháng 1 năm Vĩnh Lịch thứ 17 (1663), Trịnh Kinh phát hiện Trịnh Thái bí mật liên lạc với nhà Thanh, tuy nhiên việc đàm phán cũng do Trịnh Thái phụ trách, Trịnh Kinh bắt đầu hoài nghi lòng trung thành của ông, bèn giam cầm Trịnh Thái, người em và đứa con của Trịnh Thái chạy sang nương tựa nhà Thanh. Không may vua Khang Hy từ chối điều kiện của Trịnh Kinh, nhà Thanh cùng với người Hà Lan hợp thành liên quân đối kháng Trịnh Kinh. Ngày 19 tháng 10 ÂL (18 tháng 11) cùng năm, liên quân Thanh-Hà Lan tiến công Kim Môn, Hạ Môn, quân Trịnh không chống cự mà bỏ chạy khỏi nơi phòng thủ, rút về Đồng Sơn. Sau khi kết thúc trận chiến, lòng người bắt đầu dao động, Liên Đại tướng Chu Toàn Bân chạy sang hàng nhà Thanh, Trịnh Kinh bèn hạ lệnh rút toàn bộ quân đội về Đài Loan.[13]
Tháng 4 năm Vĩnh Lịch thứ 19 (1665), liên quân Thanh-Hà Lan tấn công Bành Hồ, trên đường đi đã gặp phải bão lớn nên rút về, do đó Thanh triều từ bỏ ý định tiến công Đài Loan, khôi phục việc đàm phán với vương triều họ Trịnh, cuộc đàm phán được tiến hành hai lần vào năm 1667 và 1669. Cũng vì Trịnh Kinh không chịu cắt tóc quy phục nên chấm dứt việc đàm phán, sau khi loại bỏ sự uy hiếp của nhà Thanh, Trịnh Kinh dồn hết tâm trí vào việc bình định Đài Loan. Năm 1666 tiến đánh Cơ Long. Tuy nhiên lại gặp phải sự đề kháng dữ dội của quân Hà Lan thủ thành cho đến năm 1668 thì thành bị chiếm, cũng vì vậy mà người Hà Lan từ bỏ mộng đoạt lại Đài Loan.
Phát triển thương mại
Sau khi Trịnh Kinh rút về Đài Loan, cố gắng nâng cao sức mạnh quốc gia thông qua thương mại, bởi vì nhà Thanh đã thực thi lệnh thiên giới, ông tiếp nhận đề nghị của Trần Vĩnh Hoa, hối lộ các tướng lĩnh nhà Thanh để tiến hành buôn lậu, do lưu dân ven biển vận chuyển hàng hóa, người Hán ở Đài Loan đương thời nam nhiều nữ ít, thậm chí còn tiến hành giao dịch nhân khẩu phụ nữ, lưu dân dưới quyền ông thay thế quân Trịnh đảm nhận việc bảo vệ, phòng thủ các căn cứ ở quần đảo.[14]
Mạc phủ Tokugawa là cộng sự thương mại quan trọng của vương triều họ Trịnh, Đài Loan chủ yếu nhập bạc, đồng, chì, mũ giáp từ Nhật Bản với số lượng lớn dùng để cung ứng cho nhu cầu chiến tranh, thương mại giữa hai bên từ năm 1665 đến 1672 đã đạt tới đỉnh cao, để tăng cường vương triều họ Trịnh và mối quan hệ thương mại với Nhật Bản, Trịnh Kinh cho phép thương nhân Nhật Bản được cư trú tại Cơ Long.[15]
Công ty Đông Ấn Anh cũng nhận được lời mời của Trịnh Kinh đến Đài Loan, hai bên đã ký kết hiệp ước thông thương vào năm 1672. Trịnh Kinh vì vậy thông qua nước Anh mà nhận được thuốc súng và vũ khí, ngoài ra người Anh còn giúp đỡ quân Trịnh huấn luyện pháo binh, đồng thời Trịnh Kinh cũng vay mượn chiến lược pháo binh của nước Anh để cải thiện khả năng tác chiến của quân Trịnh.[16]
Vượt biển Tây chinh
Ngày 16 tháng 3 ÂL năm Vĩnh Lịch thứ 28 (21 tháng 4 năm 1674), Cảnh Tinh Trung hưởng ứng Ngô Tam Quế phát động Loạn Tam phiên, đã gửi chiến hạm đến cho Trịnh Kinh nhằm thỉnh cầu ông xuất binh, Trịnh Kinh đáp ứng. Tháng 5 năm 1674, Trịnh Kinh xuất phát từ Đài Loan đến Hạ Môn, yêu cầu Cảnh Tinh Trung đến Chương Châu, Tuyền Châu chu cấp cho ông.[17] Tại thời điểm này Cảnh Tinh Trung đã nắm được toàn bộ tỉnh Phúc Kiến, cho rằng binh lực Trịnh Kinh quá ít, từ lâu đã hủy bỏ việc tác chiến chung với ông, lại còn từ chối các yêu cầu tiếp tế của ông.[18] Trịnh Kinh nổi giận lập tức xua quân chiếm giữ Hải Đăng, Đồng An, Cảnh Tinh Trung cho cắt đứt tuyến đường thương mại của Trịnh Kinh để trả thù, quan hệ giữa hai bên trở nên xấu dần.[19]
Các nơi ở đại lục như Tuyền Châu, Chương Châu, Triều Châu đều lần lượt quy thuận lực lượng của Trịnh Kinh, Cảnh Tinh Trung nhận thấy thanh thế của Trịnh Kinh ngày càng lớn mạnh, liền cử người tới đàm phán với hy vọng ông sẽ trả lại Tuyền Châu thế nhưng Trịnh Kinh không đồng ý, khiến Cảnh Tinh Trung quyết định dùng vũ lực đoạt lại Tuyền Châu. Trịnh Kinh phái bộ tướng Lưu Quốc Hiên tới Đồ Lĩnh (nay là thị trấn Đồ Lĩnh khu Tuyền Cảng) đánh lui quân của Cảnh Tinh Trung, sau đó vì hai bên tranh đoạt Chương Phố mà phát sinh chiến sự. Đến tháng 1 năm Vĩnh Lịch thứ 29 (1675), Cảnh Tinh Trung thực hiện thỏa thuận trước đây, cung cấp 5 chiếc tàu chiến cho Trịnh Kinh và phân chia ranh giới tại Phong Đình (nay là thị trấn Phong Đình huyện Tiên Du), phía bắc thuộc Cảnh Tinh Trung, phía nam thuộc Trịnh Kinh, hai bên tạm thời ngưng chiến.
Trịnh Kinh tuy hai lần đẩy lui quân Thanh ở Quảng Đông, nhưng vẫn còn vài huyện thuộc Triều Châu từ chối phục tùng, sau khi giảng hòa với Cảnh Tinh Trung, Trịnh Kinh dự tính nam chinh Triều Châu, trước tiên ông phái Lưu Quốc Hiên đánh bại Thượng Chí Tín, rồi tự mình dẫn quân tiến đến Hải Đăng. Tuy nhiên, bộ tướng phòng thủ Triều Châu của ông là Hoàng Phương Độ lại bí mật liên hệ với nhà Thanh, Trịnh Kinh nghi ngờ lòng trung thành của ông này, muốn ông phải ra khỏi thành và gặp mặt Trịnh Kinh, hoặc phái quân đội cùng nhau tiến công, cả hai lệnh này Hoàng Phương Độ từ chối tuân theo, vả lại vào tháng 6 cùng năm còn cử binh phản kháng. Trịnh Kinh đích thân tự mình dẫn quân bao vây Triều Châu. Ngày 6 tháng 10 ÂL (22 tháng 11) chiếm được Triều Châu, sai người tới ép Hoàng Phương Độ phải tự sát, nhằm trả thù cho việc thuộc hạ của ông này là Hoàng Ngô phá nát mộ phần nhà họ Trịnh. Trịnh Kinh hạ lệnh ngũ mã phanh thây thi thể của Hoàng Phương Độ và Hoàng Ngô, lại còn xử tử cả gia tộc của Hoàng Phương Độ ở Triều Châu.[20]
Năm Vĩnh Lịch thứ 30 (1676) Thượng Chí Tín một lần nữa lại bị quân Trịnh đánh bại, đã tham gia vào mặt trận chống Thanh của Tam Phiên, bèn nhường lại Huệ Châu cho Trịnh Kinh. Lúc này ông chỉ còn nhận được sự ủng hộ từ thủ phủ ở bốn nơi là Chương Châu, Tuyền Châu, Triều Châu, Huệ Châu, Các đồng minh ở xung quanh, trong đó có lãnh thổ nhà Thanh nhường cho ông, do đó khiến ông rơi vào các cuộc tranh đoạt lãnh thổ và xung đột đồng minh. Tháng 5, Cảnh Tinh Trung dự tính tham gia cùng Ngô Tam Quế tiến đánh Giang Nam, kêu gọi Tổng binh Đinh Châu Lưu Ứng Lân xuất binh hưởng ứng, thế nhưng Lưu Ứng Lân không chịu phái binh, bí mật liên lạc với Trịnh Kinh, đánh hạ Đinh Châu.[21]
Sự kiện này đã gây chia rẽ liên minh Trịnh, Cảnh. Cảnh Tinh Trung bề ngoài tỏ ý theo quân Trịnh bao vây quân Thanh, nhưng thực sự thì lại muốn đến đầu hàng nhà Thanh. Vì lực lượng của Cảnh Tinh Trung và Trịnh Kinh quá ít ỏi để khi cần thiết trực tiếp chống lại chủ lực quân Thanh, trước tiên ông phái ba vạn quân tiến đánh Phúc Châu, thế nhưng vào ngày 15 tháng 10 ÂL (20 tháng 11) năm 1676 lại bị quân Thanh đánh bại tại Ô Long Giang, lãnh địa của ông liên tục thất thủ, Trịnh Kinh chỉ còn cách quay về Hạ Môn.[22]
Cuối đời
Sau khi Trịnh Kinh gặp thất bại ở đại lục, ông cố gắng kiên trì phòng thủ Hạ Môn. Phái xuất tướng lãnh phòng thủ các quần đảo ven biển phía nam Chiết Giang, Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, ổn định lòng quân, điều Lưu Quốc Hiên quay về Hạ Môn và phong cho ông này làm Thống soái đại quân, chuẩn bị phản công Mân Nam.[23] Ngày 18 tháng 2 ÂL năm Vĩnh Lịch thứ 32 (10 tháng 3 năm 1678) Trịnh Kinh cử Lưu Quốc Hiên trước tiên đánh hạ Giang Đông Kiều, cắt đứt sự liên hệ của Chương Châu, Tuyền Châu sau hơn 3 tháng bao vây, vào ngày 10 tháng 6 ÂL (28 tháng 7) chiếm được Hải Đăng, thế nhưng tình hình ở các khu vực Chương Châu, Tuyền Châu vẫn còn tràn ngập chiến sự ác liệt, tại đây quân Trịnh đánh mãi mà không giành được chiến thắng quyết định nào dẫn đến tình trạng chiến sự rơi vào bế tắc.
Tháng 12 cùng năm,[24] nhà Thanh một lần nữa cho khôi phục lệnh thiên giới, thiết lập hàng loạt căn cứ trọng yếu, bắc đến Phúc Châu, nam tới ven biển Chiêu An,[25] biện pháp này đã giáng một đòn nặng vào hoạt động thương mại của vương triều họ Trịnh, buộc họ phải thông qua con đường hối lộ với quan viên Thanh triều để tiến hành giao dịch. Trải qua nhiều năm chinh chiến, tài chính của họ Trịnh ngày càng bị hao hụt nghiêm trọng, quân đội thiếu chu cấp, tiếp tế,[26] Trịnh Kinh buộc lòng phải từ bỏ các cứ điểm chiếm hữu nằm ven biển Đông Nam. Ngày 12 tháng 3 ÂL năm Vĩnh Lịch thứ 34 (10 tháng 4 năm 1680) Trịnh Kinh dẫn toàn bộ binh tướng rút về Đài Loan, mọi việc chính sự trong nước đều giao cho con là Trịnh Khắc Tang xử lý.
Ngày 28 tháng 1 ÂL năm Vĩnh Lịch thứ 35 (17 tháng 3 năm 1681) Trịnh Kinh lâm trọng bệnh mất ở Phủ Thừa Thiên, Đài Loan, hưởng thọ 40 tuổi.
Thơ ca
Phần lớn các tác phẩm của Trịnh Kinh đều là thơ do chính ông sáng tác gồm các bài như:
- Khi sứ thần Mãn Châu đến, có lời nói rằng không lên bờ và không đổi y phục, tức giận mà làm ra bài thơ này (滿酋使來有不登岸不易服之說憤而賦之 Mãn tù sử lai hữu bất đăng ngạn bất dịch phục chi thuyết phẫn nhi phú chi)
Nguyên văn:
- 王氣中原盡,衣冠海外留。
- 雄圖終未已,日夕整戈矛。
Hán Việt:
- Vương khí Trung Nguyên tận, y quan hải ngoại lưu.
- Hùng đồ chung vị dĩ, nhật tịch chỉnh qua mâu.
Tạm dịch:
- Vương khí Trung Nguyên vừa cạn kiệt, còn lại áo mũ ở ngoài quan.
- Mưu toan hùng mạnh hết chưa thôi, ngày đêm sửa sang lại qua mâu.
- Đề trên lầu Đông Bích, tự thuật cảnh vật (題東壁樓景自敘 Đề đông bích lâu cảnh tự tự)
Nguyên văn:
- 西郭樓臺近水濱,青山白雲相與鄰。
- 試問閣中誰隱者,昔日先朝一漢臣。
Hán Việt:
- Tây quách lâu đài cận thủy tân, thanh sơn bạch vân tương dữ lân.
- Thí vấn các trung thùy ẩn giả, tích nhật tiên tiêu nhất Hán thần.
Tạm dịch:
- Tây thành lầu gác kề sông, núi xanh mây trắng kế liền kề.
- Thử hỏi ẩn sĩ ở trong lầu, tôi thần nhà Hán thuở ngày xưa.
- Buồn vì Trung Nguyên chưa khôi phục (悲中原未復 Bi Trung nguyên vị phục)
Nguyên văn:
- 胡虜腥塵遍九州,忠臣義士懷悲愁。
- 既無博浪子房擊,須效中流祖狄舟。
- 故國山河盡變色,舊京宮闕化成丘。
- 復仇雪恥知何日,不斬樓蘭誓不休!
Hán Việt:
- Hồ lỗ tinh trần biến cửu châu, trung thần nghĩa sĩ hoài bi sầu.
- Ký vô bác lãng tử phòng kích, tu hiệu trung lưu Tổ Địch chu.
- Cố quốc sơn hà tận biến sắc, cựu kinh cung khuyết hóa thành khâu.
- Phục cừu tuyết sỉ tri hà nhật, bất trảm Lâu Lan thệ bất hưu !
Tạm dịch:
- Dấu chân giặc Hồ khắp chín châu, trung thần nghĩa sĩ lệ sầu rơi.
- Bác Lãng Trương Lương đà vắng bóng, giữa dòng Tổ Địch vẫn ngược xuôi.
- Non sông đất nước đều thay sắc, cung điện kinh thành hóa gò hoang.
- Phục thù rửa hận biết ngày nào, chưa chém Lâu Lan thề chẳng thôi!
- Nghe phía Tây vừa giành lại, vui mừng làm thơ được chữ "Thành" (聞西方反正喜詠得誠字 Vấn Tây phương phản chính hỉ vịnh đắc Thành tự)
Nguyên văn:
- 群胡亂宇宙,百折守丹誠。
- 海島無鸞信,鄉關斷雞聲。
- 義師興棘岫,壯氣撼長鯨。
- 旗旆荊襄出,刀兵日月明。
- 一聞因色動,滿喜又心驚。
- 原掃腥羶幕,悉恢燕鎬京。
- 更開朝貢路,再築受降城。
Hán Việt:
- Quần Hồ loạn vũ trụ, bách chiết thủ đan thành.
- Hải đảo vô loan tín, hương quan đoạn kê thanh.
- Nghĩa sư hưng cức tụ, tráng khí hám trường kình.
- Kỳ bái Kinh Tương xuất, đao binh nhật nguyệt minh.
- Nhất vấn nhân sắc động, mãn hỉ hựu tâm kinh.
- Nguyên tảo tinh thiên mạc, tất khôi Yến Hạo kinh.
- Canh khai triều cống lộ, tái trúc thụ hàng thành.
Tạm dịch:
- Giặc Hồ làm loạn cõi trời, ngàn lần thất bại giữ đời lòng son.
- Ngoài đảo chẳng có thư loan, quê hương cách trở tiếng gà chẳng nghe.
- Nghĩa quân dấy ở non tre, khí hùng lay chuyển kình ngư sóng cồn.
- Cờ phất Kinh Tương ngất ngây, đao binh lấp loáng mặt trời, trăng soi.
- Nghe tin ai nấy đổi thay, vừa mừng khôn xiết lại rày giật mình.
- Nguyện quét tanh hôi sạch trơn, khôi phục Yên Hạo lại hơn xưa giờ.
- Mở đường triều cống thẳng tắp, xây thành chịu hàng vững chắc muôn đời.
Đánh giá
Học giả người Mỹ Denny Roy cho biết thì tuy Trịnh Kinh tại Đài Loan mặc dù xưng là Duyên Bình Quận vương, nhưng trên thực tế thì Đài Loan vẫn coi nhà Minh là triều đại chính thống, dù rằng nhà Minh đã bị diệt vong và nhà Thanh vẫn chưa nói gì về chủ quyền hành xử của Đài Loan, thực chất thì Đài Loan đã là một chính quyền độc lập.[27]
Liên quan đến gia đình
Cha
- Trịnh Thành Công (鄭成功), phong Diên Bình vương (延平王).
Mẹ
- Phu nhân Đổng Hữu (董友; 1623 - 1681), còn gọi là Đại Nương, con gái Lễ bộ Hữu thị lang Đổng Dương Tiên (董颺先) và người thiếp Trần thị (陳氏), phong Diên Bình Vương phi (延平王妃) rồi Vương thái phi, khi mất được nhà Thanh truy phong Triều Vũ Vương phi (潮武王妃).
Anh em
- Trịnh Thông (鄭聰), tự Triết Thuận (哲順), hiệu Di Đường (怡堂), năm Khang Hy thứ 22, trao chức tam phẩm.
- Trịnh Minh (鄭明), tự Triết Hy (哲熙), hiệu Hy Chi (熙之), năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
- Trịnh Duệ (鄭睿), tự Triết Thánh (哲聖), hiệu Thánh Chi (聖之), mất sớm, được chôn chung ở mộ phần họ Trịnh nay là khu mộ hai công tử họ Trịnh ở Phiên Phủ thuộc khu Nam thành phố Đài Nam.
- Trịnh Trí (鄭智), tự Triết Tích (哲錫), hiệu Tích Chi (錫之), năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
- Trịnh Khoan (鄭寬), tự Triết Thạc (哲碩), hiệu Thạc Chi (碩之), không rõ.
- Trịnh Dụ (鄭裕), tự Triết Ích (哲益), hiệu Ích Chi (益之), năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
- Trịnh Ôn (鄭溫), tự Triết Niệm (哲念), hiệu Niệm Trai (念齋), năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
- Trịnh Nhu (鄭柔), tự Triết Năng (哲能), hiệu Năng Chi (能之), năm Khang Hy thứ 22, trao chức tứ phẩm.
- Trịnh Phát (鄭發), tự Triết Chấn (哲奮), hiệu Phấn Chi (奮之), mất sớm, được chôn chung ở mộ phần họ Trịnh nay là khu mộ hai công tử họ Trịnh ở Phiên Phủ thuộc khu Nam thành phố Đài Nam.
Thê thiếp
- Chính phi Đường thị (唐氏; 1642 - 1666), người Tiên Du, con gái Binh bộ Thượng thư Đường Hiển Duyệt (唐顯悅). Đường thị là chính thất của Trịnh Kinh nhưng bị đối xử lạnh nhạt, qua đời vì trầm cảm và bệnh tật ở tuổi 25, được Trịnh Khắc Sảng truy phong Văn phi (文妃).
- Phu nhân Trần Chiêu Nương (陳昭娘; 1626 - 1662), vốn là vú nuôi của em trai Trịnh Kinh, tư thông với ông mà sinh ra Khắc Tang. Rất được Trịnh Kinh sủng ái mà hà hiếp chính thất Đường thị, trở thành bê bối nghiêm trọng trong chính quyền Đông Ninh, Trần thị do không chịu được đả kích mà qua đời không lâu sau khi sinh vì trầm cảm.
- Phu nhân Hoàng Hòa Nương (黃和娘), sinh Khắc Sảng.
- Phu nhân Hứa thị (許氏).
- Thứ thất Lâm thị (林氏), Lý thị (李氏), Kha thị (柯氏), Phùng thị (馮氏), Triệu thị (趙氏), Trương thị (張氏), Lưu thị (劉氏) và Lại thị (賴氏).
Vương tử
- Con trưởng: Trịnh Khắc Tang (鄭克𡒉); lấy con gái của Trần Vĩnh Hoa làm vợ, Khắc Tang nguyên là người thừa kế chính danh ngôi vị họ Trịnh, nhưng lại bị bọn người Phùng Tích Phạm mưu sát, mất khi vừa mới tròn 16 tuổi.
- Con thứ hai: Trịnh Khắc Sảng (鄭克塽); tên húy là Tần, tự Thực Hoằng, hiệu Hối Đường, lấy con gái của Trần Vĩnh Hoa làm vợ, kế thừa tước Duyên Bình Quận vương của cha, giữ chức Thống soái Đại tướng quân, vào năm 1683 đầu hàng nhà Thanh, kết thúc sự thống trị hai mươi mốt năm của vương triều họ Trịnh tại Đài Loan.
- Con thứ ba: Trịnh Khắc Cử (鄭克壆); sau khi Trịnh Khắc Sảng đầu hàng nhà Thanh, được Khang Hy phong Cung Cẩn hầu (恭謹侯).
- Trịnh Khắc Quân (鄭克均): không rõ, mẹ là Kha thị.
- Trịnh Khắc Bạt (鄭克坺): không rõ, mẹ là Phùng thị.
- Trịnh Khắc Thương (鄭克𡍬): không rõ, mẹ là Triệu thị.
- Trịnh Khắc Kỳ (鄭克圻): không rõ, mẹ là Trương thị.
- Trịnh Khắc Xác (鄭克塙): không rõ, mẹ là Lưu thị.
Chú thích
- ^ Hung, "Taiwan Under the Cheng Family, 1662 – 1683", tr. 139. Xem chú thích 1 để biết nguồn; bia đá trên mộ Trịnh.
- ^ Hung, "Taiwan Under the Cheng Family, 1662 – 1683", tr. 139.
- ^ a b Hung, "Taiwan Under the Cheng Family, 1662 – 1683", tr. 265
- ^ Carioti, "The Zhengs' Maritime Power in the International Context of the 17th Century Far East Seas", p. 52.
- ^ Hung, "Taiwan Under the Cheng Family, 1662 – 1683", tr. 141. Đường là họ của vợ Trịnh. Không có tên riêng nào còn lưu lại trong hồ sơ, điều này không hiếm gặp đối với phụ nữ Trung Quốc thời tiền Dân Quốc..
- ^ Ghi chú sau đây là bản sao từ bài viết về Trịnh Thành Công trên Wikipedia liên quan đến vợ của Trịnh Thành Công và tên mẹ của Trịnh Kinh. John E. Wills và Donald Keene đều đồng ý rằng họ của vợ Trịnh Thành Công là 'Đổng' (董), Wills, Pepper, Guns and Parleys, tr. 28, và Keene, The Battles of Coxinga, tr. 46. Tuy nhiên, Jonathan Clements lại cho rằng tên bà là Đổng Hữu Cô', Clements, Coxinga and the Fall of the Ming Dynasty, tr. 92. Chang và cộng sự, The English Factory in Taiwan, 1670 - 1685, tr. 740, giới thiệu tên bà là 'Tung Ts'ui-ying', mà theo Hán ngữ bính âm là 'Đổng Hữu Cô'.
- ^ Hải kỷ tập yếu, tr. 30.
- ^ Lúc Đường Hiển Duyệt tố cáo với Trịnh Thành Công nói "tam phụ bát mẫu, vú nuôi cũng ở đó". Xem thêm Đài Loan ngoại ký, tr. 210.
- ^ Bì hải kỷ du, tr. 50.
- ^ Hải kỷ tập yếu, tr. 31.
- ^ Trịnh thị quan hệ văn thư, tr. 1–8 và Chế tác Phúc Nhĩ Ma Sa, tr. 202.
- ^ Ngày của cuộc chiến này có hai lời giải thích khác nhau, Hải kỷ tập yếu, Trịnh Thành Công truyện, Tiểu thiển kỷ niên đều ghi là ngày 1 tháng 11, nhưng Đài Loan ngoại ký lại nói là ngày 17 tháng 10.
- ^ Hải kỷ tập yếu, tr. 35.
- ^ Đài Loan sử, tr. 182–183.
- ^ Đài Loan chính trị sử, tr. 62–63.
- ^ Đài Loan sử, tr. 204–205.
- ^ Trịnh Thành Công truyện, tr. 36.
- ^ Hải kỷ tập yếu, tr. 40.
- ^ Tĩnh hải chí, tr. 75.
- ^ Đài Loan ngoại ký, tr. 298 và Thanh Thánh Tổ thực lục tuyển biên, tr. 55.
- ^ Hải kỷ tập yếu, tr. 50.
- ^ Về ngày chiến đấu cho tới số lượng quân Trịnh, xem thêm Thanh Thánh Tổ thực lục tuyển biên, tr. 63.
- ^ Tĩnh hải chí, tr. 82.
- ^ Chuyển đổi thành dương lịch, từ tháng 1 tới tháng 2 năm 1679.
- ^ Đài Loan sử, tr. 184.
- ^ Tĩnh hải chí, tr. 91.
- ^ Denny Roy, Đài Loan chính trị sử, tr. 65-66.
Tham khảo
- Hạ Lâm (夏琳), Hải kỷ tập yếu (海紀緝要)
- Bành Tôn Di (彭孫貽), Tĩnh hải chí (靖海志)
- Uất Vĩnh Hà (郁永河), Tỳ hải kỷ du (裨海紀遊)
- Từ Tài (徐鼒), Tiểu thiển kỷ niên (小腆紀年)
- Thanh thực lục (清实录), Thanh Thánh Tổ thực lục tuyển tập (清聖祖實錄選輯)
- Giang Nhật Thăng (江日昇), Đài Loan ngoại ký (臺灣外記)
- Trịnh Diệc Châu (鄭亦鄒), Trịnh Thành Công truyện (鄭成功傳)
- (Ichimura Sanjirō (市村讚次郎), Trịnh thị quan hệ văn thư (鄭氏關係文書)
- Triệu Nhĩ Tốn (趙爾巽), Thanh sử cảo (清史稿), quyển 224, liệt truyện 11, Trịnh Thành Công truyện phụ Trịnh Cẩm truyện (鄭成功傳附鄭錦傳)
Tất cả các tài liệu trên bao gồm cả văn bản điện tử thư tịch chữ Hán ở Trung tâm Kế toán Viện Nghiên cứu Trung ương.
- Lý Đằng Nhạc (李騰岳), Trịnh Thành Công tử nhân khảo (鄭成功死因考)
- Ủy ban Văn hiến tỉnh Đài Loan (臺灣省文獻委員會), Đài Loan sử (臺灣史), Đài Bắc: Nhà xuất bản Chúng Văn Đồ thư, năm 1990.
- Đới Bảo Thôn (戴寶村), Đài Loan chính trị sử (臺灣政治史), Đài Bắc: Nhà xuất bản Ngũ Nam Đồ thư, năm 2006.
- Trịnh Duy Trung (鄭維中), Chế tác Phúc Nhĩ Ma Sa, truy tầm Tây dương cổ thư đích Đài Loan thân ảnh (製作福爾摩沙:追尋西洋古書中的臺灣身影) Đài Bắc: Như Quả xuất bản xã, Đại Nhạn văn hóa phát hành, năm 2006.