Yokohama DeNA BayStars | |||||
---|---|---|---|---|---|
横浜DeNAベイスターズ | |||||
| |||||
Thông tin | |||||
Giải | Nippon Professional Baseball
| ||||
Vị trí | Naka-ku, Yokohama, Kanagawa, Japan | ||||
Sân nhà | Yokohama Stadium | ||||
Năm thành lập | 15 tháng 12 năm 1949 | ||||
CL pennants | 2 (1960, 1998) | ||||
Vô địch Japan Series | 3 (1960, 1998, 2024) | ||||
Tên cũ |
| ||||
Sân đấu cũ |
| ||||
Màu | Xanh lam, Trắng | ||||
Linh vật | DB.Starman và DB.Kirara | ||||
Suất playoff | 6 (2016, 2017, 2019, 2022, 2023, 2024) | ||||
Sở hữu | Namba Tomoko | ||||
Ban quản lý | DeNA Co., Ltd. | ||||
Huấn luyện viên trưởng | Miura Daisuke | ||||
Đồng phục | |||||
Yokohama DeNA BayStars (横浜DeNAベイスターズ Yokohama Dī-Enu-Ē Beisutāzu) là một đội bóng chày chuyên nghiệp thành viên chi giải Central League của Nippon Professional Baseball. CLB lấy sân nhà tại Sân vận động Yokohama, nằm ở trung tâm Yokohama, tỉnh Kanagawa. Đội bóng này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau kể từ khi đi lên chuyên nghiệp vào năm 1950, với cái tên hiện tại được thiết lập vào năm 2011, khi CLB được công ty phần mềm DeNA mua lại.
Lịch sử
Nguồn gốc (những năm 1930–1949)
CLB Baystars có tiền thân là câu lạc bộ nghiệp dư của Công ty ngư nghiệp Taiyo, trực thuộc Tập đoàn Maruha (hiện nay là Maruha Nichiro). Đội bắt đầu tham gia các giải đấu quốc gia vào những năm 1950 và với chức vô địch tại Đại hội thể thao quốc gia năm 1948, trở nên nổi tiếng trên toàn quốc. Vào mùa giải năm 1949, nhiều đội bóng chuyên nghiệp đã tuyển nhiều cầu thủ khỏi biên chế CLB nghiệp dư Taiyo. Chủ sở hữu công ty Taiyo quyết định đưa CLB lên chuyên nghiệp, tham gia chi Central League của giải Nippon Professional Baseball mới được tái cơ cấu vào năm 1950, với tên gọi là CLB Maruha lấy trụ sở tại Shimonoseki, Yamaguchi .
Taiyo Whales (1955–1977)
Tên CLB được đổi thành Taiyō Whales (大洋ホエールズ Taiyō Hoeeruzu) ngay khi mở màn mùa giải 1950. Tuy nhận được về biên chế một số cầu thủ kỳ cựu từ Yomiuri Giants để bù đắp cho sự thiếu hụt cầu thủ, CLB Whales cuối cùng vẫn kết thúc mùa giải ở nửa dưới bảng xếp hạng.
Năm 1951, CLB Whales đã đề xuất mua lại và sáp nhập Hiroshima Carp, một CLB đang gặp phải vấn đề tài chính nghiêm trọng, nhưng việc sáp nhập đã không diễn ra do có phản đối dữ dội từ người dân Hiroshima.
Taiyo Shochiku Robins (1953) và Yo-Sho Robins (1954)
Vào năm 1952, ban tổ chức Central League quy định rằng CLB nào kết thúc mùa giải với tỷ lệ trận thắng dưới 0,300 sẽ bị khai trừ hoặc sáp nhập với các đội khác. Kết thúc mùa giải, Shochiku Robins - nhà vô địch Central League năm 1950, rơi vào cảnh khai trừ và được hợp nhất với Taiyo Whales để trở thành Taiyō-Shochiku Robins (大洋松竹ロビンス Taiyō Shōchiku Robinsu) vào tháng 1 năm 1953. Tuy nhiên, việc thống nhất cơ cấu CLB đã không hoàn thành kịp cho mùa giải năm 1953 và đội đã phải tiếp tục duy trì hiện diện tại cả Shimonoseki và Kyoto . Các trận đấu của đội lấy sân nhà tại Osaka vì lý do địa lý, trong khi cơ cấu quản lý CLB đặt tại cả công ty Taiyo và Shochiku cho tới khi chính thức được chuyển hẳn tới Osaka vào năm 1954, và mang tên Yō-Shō Robins (洋松ロビンス Yō-Shō Robinsu) .
Taiyo Whales (1950–1952)
Với việc Shochiku ngừng tài trợ vào tháng 12 năm 1954, CLB đổi tên về là Taiyo Whales và chuyển đến Kawasaki, Kanagawa. Tại đây CLB có riêng một sân nhà Sân vận động Kawasaki, nhưng đã kết thúc sáu mùa giải liên tiếp ở vị trí cuối cùng từ 1954–1959.
Năm 1960, đội đã chiêu mộ Mihara Osamu, nguyên huấn luyện viên trưởng Nishitetsu Lions vào năm trước. Mihara đã dẫn dắt đội giành chức vô địch đầu tiên vào năm 1960 và đánh bại Daimai Orions tại Nippon Series năm 1960, sau khi đứng ở vị trí cuối cùng vào năm trước. Mùa giải 1960 cũng được đánh dấu bằng việc cầu thủ ném bóng Shimada Gentaro, chỉ 2 tuần trước sinh nhật lần thứ 21 của mình, đã ném trận no-hit no-run và đồng thời là trận ném hoàn hảo đầu tiên trong lịch sử Whales, trở thành cầu thủ trẻ nhất làm được điều này trước khi Sasaki Rōki làm được vào năm 2022.
Tuy nhiên, thành công này không kéo dài được lâu và CLB nhanh chóng trở lại đáy bảng xếp hạng vào năm 1961. CLB Whales trở lại khởi sắc vào năm 1962, nhưng đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ hai, kém đội Hanshin Tigers bốn trận thắng. Họ lại để mất chức vô địch giải đấu vào tay Tigers vào năm 1964, khi chỉ cách vị trí đầu bảng một trận thắng (chênh lệch tỷ lệ chiến thắng 0,008).
Đội đã sản sinh ra vô số cầu thủ ngôi sao trong những năm 1970, nhưng vẫn chật vật để đạt tỉ lệ chiến thắng trên 0,5 mỗi mùa giải. Sân vận động Kawasaki với kích thước nhỏ đã giúp Whales trở thành một trong những đội tấn công hiệu quả nhất trong lịch sử bóng chày Nhật Bản, nhưng với đội hình ném bóng yếu và thiếu sự hỗ trợ tài chính, CLB vẫn không thể cạnh tranh cho chức vô địch Central League.
Đến năm 1976, CLB đã lên kế hoạch chuyển từ Kawasaki đến Yokohama và với sự hỗ trợ từ thị trưởng Yokohama, CLB nhận được hỗ trợ tài chính bổ sung từ Công ty Kokudo với việc 45% cổ phần, và 55% còn lại thuộc về Taiyo.
Yokohama Taiyo Whales (1978–1992)
Năm 1978, CLB chuyển đến Sân vận động Yokohama mới khánh thành ở trung tâm thành phố Yokohama. Tên CLB cũng được đổi thành Yokohama Taiyō Whales (横浜大洋ホエールズ Yokohama Taiyō Hoeeruzu) để gắn kết tốt hơn với địa bàn của CLB. Công ty Kokudo đã bán cổ phần tại CLB cho Nippon Broadcasting System (30% cổ phần) và TBS (15% cổ phần), trong khi Taiyo giữ lại 55% cổ phần. CLB này được nhiều người yêu thích hơn trong giai đoạn này so với những năm trước, nhưng vẫn chỉ đạt được kết quả khiêm tốn trên bảng xếp hạng, với vị trí cao nhất là khi CLB đứng thứ hai sau Hiroshima Toyo Carp vào năm 1979.
Yokohama BayStars (1993–2011)
Vào tháng 11 năm 1992, Taiyo đổi tên thành Tập đoàn Maruha. Ban đầu, CLB được dự định đổi tên thành Yokohama Whales, nhưng những hạn chế mới và sự phản đối trong nước và quốc tế trước hoạt động săn bắt cá voi đã khiến công ty loại bỏ ý định trên. Ngoài ra, một thành phần người hâm mộ mê tín cũng tin rằng oan hồn cá voi chết sẽ mang theo lời nguyền lên đội bóng không thể giành chức vô địch CLB cuối cùng đổi tên thành Yokohama BayStars (横浜ベイスターズ Yokohama Beisutāzu). Ban đầu, đội bóng này được đặt tên là Yokohama Bay Stars (Stars là biệt danh của đội), ám chỉ đến cầu Vịnh Yokohama, nhưng sau đó được đổi thành BayStars theo thói quen gọi CLB của người hâm mộ. BayStars trở thành CLB bóng chày chuyên nghiệp đầu tiên của Nhật Bản loại bỏ tên doanh nghiệp chủ quan khỏi tên đội.
Đội BayStars không phải có nhiều triển vọng cạnh tranh trong đầu những năm 1990, nhưng dần dần đã tập hợp được những cầu thủ góp phần vào chức vô địch của đội vào năm 1998. Ohya Akihiko nhậm chức huấn luyện viên trưởng CLB vào năm 1996 và suýt bắt kịp Yakult Swallows trên bảng xếp hạng vào năm 1997, kết thúc màu giải tại vị trí thứ hai. Gondo Hiroshi, một huấn luyện viên ném bóng ở mùa giải 1997, kế nhiệm Ohya vào năm 1998, và BayStars đã giành chức vô địch Central League đầu tiên sau 38 năm vào năm 1998, trước khi đánh bại Seibu Lions để giành chức vô địch Nhật Bản lần đầu tiên trong lịch sử CLB. Đội hình năm 1998 có thành tích đánh bóng ổn định, khả năng phòng thủ hoàn hảo (năm cầu thủ của BayStars đã giành giải Găng tay vàng năm 1998) và đội hình ném bóng chắc chắn (nổi bật cầu thủ giao bóng chốt hạ Sasaki Kazuhiro) đã góp phần tạo nên mùa giải thành công. Đội hình đánh bóng của BayStars trong mùa giải năm 1998 được gọi là "Dàn đánh bóng súng máy" vì các cầu thủ Yokohama thường liên tiếp ghi hit (chủ yếu là những hit đơn) và tinh thần thi đấu quyết liệt cho đến khi trận đấu kết thúc. Các cầu thủ tạo nên "Dàn đánh bóng súng máy" bao gồm Bobby Rose, Ishii Takuro, Tanishige Motonobu, Glenn Braggs (rời đi năm 1996) và Suzuki Takanori.
Yokohama DeNA BayStars (2012–nay)
Vào năm 2011, CLB Baystars được nhà phát triển trò chơi trên điện thoại di động DeNA mua lại. Tên đã được thay đổi để bổ sung doanh nghiệp chủ quản và linh vật cũng được thay đổi từ Hosshey thành D.B. Starman.
Vào ngày 13 tháng 3 năm 2023, Trevor Bauer gia nhập BayStars với bản hợp đồng có thời hạn một năm, trị giá 4 triệu đô la[1].
Các cầu thủ đã và đang thi đấu tại MLB
Hiện tại:
- Imanaga Shota (2024–nay)
Từng thi đấu tại MLB:
- Trevor Bauer (2012-2021)
- Yuli Gurriel (2014–2015)
- Ohka Tomo (1999–2009)
- Saito Takashi (2006–2012)
- Sasaki Kazuhiro (2000–2003)
- Fukumori Kazuo (2008)
- Tsutsugo Yoshi (2020–2022)
- Joe Stanka (1966)
Đội bóng hạng dưới
Đội bóng hạng dưới của Baystars được thành lập vào năm 1950, và chơi ở giải Eastern League. Đội bóng hạng dưới trực thuộc trực tiếp CLB Baystars và họ chơi phần lớn các trận đấu trên sân nhà tại Sân vận động Yokosuka, nằm ở Yokosuka, Kanagawa .
Xem thêm
- Công ty cổ phần Maruha Nichiro
- Công ty Cổ phần Hệ thống Phát thanh Truyền hình Tokyo
Tham khảo
- ^ NEWS, KYODO. "Baseball: Former Cy Young winner Trevor Bauer to rejoin BayStars". Kyodo News+. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2025.
Liên kết ngoài
- Trang web chính thức (bằng tiếng Nhật)