Kiev Rus', còn gọi là Kyiv Rus' (tiếng Slav Đông cổ: Роусь, đã Latinh hoá: Rusĭ, hoặc ро́усьскаѧ землѧ́, rusĭskaę zemlę, 'đất Rus''; tiếng Bắc Âu cổ: Garðaríki), là một nhà nước và về sau là một hỗn hợp các thân vương quốc[4] tại Đông và Bắc Âu từ cuối thế kỷ 9 đến giữa thế kỷ 13.[5] Kiev Rus' bao gồm nhiều chính thể và dân tộc khác nhau như Đông Slav, Norse,[6][7] và Finn, do vương triều Rurik cai trị, do thân vương người Varangia là Rurik thành lập.[8] Các quốc gia hiện đại gồm Belarus, Nga và Ukraina đều tuyên bố Kiev Rus' là tổ tiên văn hóa của họ, và tên gọi của Belarus và Nga (Rossiya) có nguồn gốc từ đây. Khi mở rộng đến cực đại vào giữa thế kỷ 11, Kiev Rus' trải rộng từ biển Trắng tại phía bắc đến biển Đen tại phía nam, và từ đầu nguồn của sông Vistula tại phía tây đến bán đảo Taman tại phía đông,[9][10] thống nhất các bộ lạc Đông Slav.[5]
Theo Biên niên sử chính yếu, Thân vương Oleg (trị. 879–912) là người thống trị đầu tiên bắt đầu thống nhất các vùng đất Đông Slav, để rồi sau này trở thành Kiev Rus'. Ông mở rộng quyền kiểm soát của mình từ Novgorod về phía nam dọc theo thung lũng sông Dnepr nhằm bảo vệ hoạt động mậu dịch khỏi các cuộc đột nhập của người Khazar từ phía đông,[5] và nắm quyền kiểm soát thành phố Kiev (Kyiv). Sviatoslav I (trị. 943–972) đạt được bước mở rộng lãnh thổ lớn đầu tiên của nhà nước, khi tiến hành một cuộc chiến tranh chinh phục chống lại người Khazar. Vladimir Vĩ đại (trị. 980–1015) truyền bá Cơ Đốc giáo từ lễ rửa tội cho bản thân, và hạ lệnh mở rộng điều này cho toàn thể cư dân Kiev và bên ngoài thành. Kiev Rus' đạt được mức mở rộng tối đa vào thời Yaroslav Thông thái (trị. 1019–1054); các con trai ông tập hợp và ban hành bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước là Russkaya Pravda sau khi ông mất.[2]
Kiev Rus' bắt đầu suy tàn vào cuối thế kỷ 11, dần tan rã thành nhiều thế lực cấp khu vực kình địch lẫn nhau trong suốt thế kỷ 12.[11] Nó càng suy yếu hơn nữa do các nhân tố bên ngoài, như đối tác kinh tế chính là Đế quốc Byzantine suy tàn, đi kèm là thu hẹp các tuyến mậu dịch qua lãnh thổ.[12] Kiev Rus' cuối cùng sụp đổ trước quân Mông Cổ xâm lược vào giữa thế kỷ 13, nhưng vương triều Rurik tiếp tục cai trị đến khi Feodor I của Nga mất vào năm 1598.[13]
Liên kết ngoài


- Historical map of Kiev Rus' from 980. to 1054.
- Historical map of Rus'-Ukraine from 1220. to 1240.
- Graphic History of Kievan Rus from c. 800 to 988 tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013)
- Rus', Encyclopedia of Ukraine
- Ancient Rus: trade and crafts
- Chronology of Kievan Rus' 859–1240.
- ^ CALIFORNIA SLAVIC STUDIES, VOLUME XVI : slavic culture in the middle ages. [S.l.]: UNIV OF CALIFORNIA PRESS. 2021. tr. 141. ISBN 9780520309180.
- ^ a b Bushkovitch 2011, tr. 11.
- ^ Б.Ц.Урланис. Рост населения в Европе (PDF) (bằng tiếng Nga). tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2016.
- ^ Martin 2009b, tr. 1–5.
- ^ a b c John Channon & Robert Hudson, Penguin Historical Atlas of Russia (Penguin, 1995), p.14–16.
- ^ "Rus | people | Britannica". www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2022.
- ^ Little, Becky (ngày 4 tháng 12 năm 2019). "When Viking Kings and Queens Ruled Medieval Russia". HISTORY (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2022.
- ^ Kievan Rus Lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2015 tại Wayback Machine, Encyclopædia Britannica Online.
- ^ Kyivan Rus’ Lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2023 tại Wayback Machine, Encyclopedia of Ukraine, vol. 2 (1988), Canadian Institute of Ukrainian Studies.
- ^ See Historical map of Kievan Rus' from 980 to 1054 Lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2021 tại Wayback Machine.
- ^ Paul Robert Magocsi, Historical Atlas of East Central Europe (1993), p.15.
- ^ "Civilization in Eastern Europe Byzantium and Orthodox Europe". occawlonline.pearsoned.com. 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2010.
- ^ Picková, Dana, O počátcích státu Rusů, in: Historický obzor 18, 2007, č.11/12, s. 253–261