Nguyễn Thị Bình | |
---|---|
![]() Nguyễn Thị Bình vào tháng 11 năm 2008 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 9 năm 1992 – 25 tháng 7 năm 2002 9 năm, 305 ngày |
Chủ tịch nước | Lê Đức Anh (1992–1997) Trần Đức Lương (1997–2006) |
Tiền nhiệm | Nguyễn Thị Định Đàm Quang Trung Lê Quang Đạo Nguyễn Quyết |
Kế nhiệm | Trương Mỹ Hoa |
Vị trí | ![]() |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 7 năm 1976 – 16 tháng 2 năm 1987 10 năm, 228 ngày |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Huyên |
Kế nhiệm | Phạm Minh Hạc |
Vị trí | ![]() |
Nhiệm kỳ | 8 tháng 6 năm 1969 – 2 tháng 7 năm 1976 7 năm, 24 ngày |
Tiền nhiệm | không có |
Kế nhiệm | không có |
Vị trí | ![]() |
Nhiệm kỳ | 25 tháng 4 năm 1976 – 19 tháng 7 năm 2002 26 năm, 85 ngày |
Nhiệm kỳ | 31 tháng 3 năm 1982 – 18 tháng 12 năm 1986 4 năm, 262 ngày |
Tổng Bí thư | Lê Duẩn Trường Chinh |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | ![]() |
Sinh | 26 tháng 5, 1927 làng Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc, xứ Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (nay là xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, Đồng Tháp, tỉnh Đồng Tháp, nước ![]() |
Nghề nghiệp | Chính trị gia |
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | ![]() |
Chồng | Đinh Khang |
Cha | Nguyễn Đồng Hợi |
Mẹ | Phan Thị Châu Lan |
Họ hàng | Phan Châu Trinh (ông ngoại) |
Con cái | Đinh Nam Thắng, Đinh Thùy Mai |
Chữ ký | ![]() |
Quê quán | xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nước ![]() |
Tặng thưởng | ![]() ![]() ![]() |
Nguyễn Thị Bình (tên khai sinh là Nguyễn Thị Châu Sa; sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; quê quán: thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà được biết đến khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị bốn bên về hoà bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968–1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định.
Sau khi đất nước Việt Nam thống nhất, bà từng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ năm 1969 đến năm 1976, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm 1976 đến năm 1987, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2002.
Thân thế và bước đầu sự nghiệp chính trị
Nguyễn Thị Bình sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại làng Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Cha là ông Nguyễn Đồng Hợi, có quê quán ở vùng Gò Nổi (nay là xã Điện Quang), thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; còn mẹ là bà Phan Thị Châu Lan con gái của cụ Phan Châu Trinh, nguyên quán ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, phủ Tam Kỳ (nay là xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam.[1]
Trong thời kỳ Pháp thuộc, ông Nguyễn Đồng Hợi làm tham tá công chánh, công tác họa đồ; gia đình ông cư trú tại Phnôm Pênh, Campuchia. Nhờ đó, bà được theo học tiếng Pháp đến bậc tú tài I tại Lycée Sisowath, một trường lớn ở Đông Dương thời bấy giờ.
Năm 1944, mẹ bà qua đời lúc bà mới 17 tuổi. Bà theo gia đình trở về nước và bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh viên học sinh như cứu tế và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ cuối năm 1945, cha bà ra chiến khu theo lời kêu gọi của Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ. Bà ở lại để chăm sóc các em, đồng thời hoạt động bí mật cho phong trào Việt Minh khối sinh viên, học sinh và phụ nữ. Lúc này, bà lấy bí danh là Yến Sa. Năm 1948, bà được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt giam và bị tra khảo tại bót Catinat, sau đó bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn rồi khám Chí Hòa (1951–1953).
Năm 1954, bà ra tù và tham gia vào phong trào hòa bình đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
Sự nghiệp
Trở thành nhà ngoại giao
Tại miền nam, bắt đầu từ năm 1954, Hoa Kỳ hậu thuẫn chính phủ Ngô Đình Diệm truy bắt, tiêu diệt lực lượng kháng chiến ở Nam bộ. Trong những năm 1954–1959, ở miền Nam đã có 466.000 người bị bắt, trong đó khoảng 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người bị xử tử.[2] Trước tình hình đó, năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Năm 1962, bà được điều trở lại miền Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, hoạt động ở mảng đối ngoại, kiêm Phó Tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng.
Năm 1963, bà sang Trung Quốc và được Mao Trạch Đông đón tiếp. Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam, đến đầu tháng 1 năm 1969, ông Trần Bửu Kiếm giữ chức vụ trưởng đoàn, còn bà về nước để chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.[cần dẫn nguồn]
Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó bà lại trở sang Paris đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời. Trong suốt thời gian 1968-1972, bà nổi tiếng trong các cuộc họp báo tại hội nghị 4 bên tại Paris, được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu Madame Bình.[3]
Khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, bà là người đại diện của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, một trong bốn bên ký vào bản Hiệp định. Lịch sử ngành ngoại giao Việt Nam ghi nhận bà Nguyễn Thị Bình là nữ bộ trưởng đầu tiên.
Hoạt động sau này
Sau sự kiện 30 tháng 4, bà trở thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976–1987), rồi Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng (1987–1992). Bà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (1982–1986), Đại biểu Quốc hội từ khoá VI đến khoá X (1976–2002).
Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992–2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ sau bà Nguyễn Thị Định, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập và giữ vai trò Chủ tịch Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam. Ngoài ra, bà cũng là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam kể từ khi hội này được thành lập vào tháng 1 năm 2004.
Năm 2001, bà được Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Ngày 25 tháng 08 năm 2025, tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành Ngoại giao do Bộ Ngoại giao tổ chức tại Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao danh hiệu “Anh hùng Lao động” tặng bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng phái đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1973.[4][5][6][7]
Đời tư
Bà lập gia đình với ông Đinh Khang năm 1955. Họ có hai người con: Đinh Nam Thắng (sinh năm 1956) và Đinh Thùy Mai (sinh năm 1960). Ông Đinh Khang qua đời năm 1989.
Tác phẩm
- Gia đình, bạn bè, đất nước (hồi ký), Nhà xuất bản Tri Thức, 2012 (đã được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Nhật)
- Tấm lòng với đất nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2017
- Tìm ngọc trong cát, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2018 ; ISBN 6049601097, ISBN 9786049601095.
Phong tặng
Anh hùng Lao động (2025)[8]
Huân chương Hồ Chí Minh (2001)
2 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Huân chương Đại đoàn kết dân tộc (2013)
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng (2008)
- Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng (2013)
- Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng (2017)[9]
- Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng (2021)
- Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng (2025)
- Huân chương Tự do hạng nhất của CHDCND Lào (2025)[10]
Chú thích
- ^ "Phan Châu Trinh và người con trai duy nhất". Báo Đà Nẵng. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023.
- ^ John Guinane (ngày 3 tháng 2 năm 2015). "TBT Trọng: 160 nghìn Đảng viên hy sinh" (bằng tiếng Anh). BBC tiếng Việt. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
- ^ "Reflections of the "Viet Cong Queen"". VietNamNet News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2023.
- ^ "Bà Nguyễn Thị Bình nhận danh hiệu Anh hùng Lao động". https://www.qdnd.vn. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2025.
{{Chú thích web}}
: Liên kết ngoài trong
(trợ giúp)|website=
- ^ ONLINE, TUOI TRE (ngày 25 tháng 8 năm 2025). "Tổng Bí thư Tô Lâm trao danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Nguyễn Thị Bình". TUOI TRE ONLINE. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2025.
- ^ laodong.vn https://laodong.vn/thoi-su/ba-nguyen-thi-binh-duoc-phong-anh-hung-lao-dong-1563070.ldo. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2025.
{{Chú thích web}}
:|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ thanhnien.vn (ngày 25 tháng 8 năm 2025). "Bà Nguyễn Thị Bình ở tuổi 98 phát biểu tại lễ kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao". Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2025.
- ^ Ngọc Ánh (ngày 25 tháng 8 năm 2025). "Tổng Bí thư trao danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Nguyễn Thị Bình". VnExpress. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2025.
- ^ Quốc Việt (ngày 31 tháng 8 năm 2017). "Trao Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng tặng đồng chí Nguyễn Thị Bình". Báo Nhân dân. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2017.
- ^ "Chủ tịch nước Lương Cường dự lễ trao Huân chương Tự do của Nhà nước Lào cho lãnh đạo cấp cao Việt Nam". Báo Nhân dân. ngày 22 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2025.
Xem thêm
Liên kết ngoài

- Anh hùng Lao động
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Kháng chiến
- Sinh năm 1927
- Nhân vật còn sống
- Người Quảng Nam
- Người Đồng Tháp
- Nữ Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Bộ trưởng Cộng hòa miền Nam Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X
- Tù nhân Pháp
- Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nữ bộ trưởng ngoại giao
- Nhà ngoại giao Việt Nam