![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-486 |
Đặt hàng | 5 tháng 6, 1941 |
Xưởng đóng tàu | Deutsche Werke, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 321 |
Đặt lườn | 8 tháng 5, 1943 |
Hạ thủy | 12 tháng 2, 1944 |
Nhập biên chế | 22 tháng 3, 1944 |
Tình trạng | Bị tàu ngầm Anh HMS Tapir đánh chìm về phía Tây Bắc Bergen, 12 tháng 4, 1945[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 50 011 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-486 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được trang bị một lớp vỏ bọc làm bằng ngói cách âm cao su thử nghiệm, giúp khó bị phát hiện bằng sonar đối phương. Nhập biên chế năm 1944, nó đã thực hiện được hai chuyến tuần tra, đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 17.651 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 1.085 tấn, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu chiến khác tải trọng 1.085 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-486 bị tàu ngầm HMS Tapir của Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong Bắc Hải về phía Tây Bắc Bergen, Na Uy vào ngày 12 tháng 4, 1945.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-486 là một trong chín tàu U-boat Type VII được trang bị một lớp vỏ bọc làm bằng ngói cách âm cao su thử nghiệm,[Ghi chú 1] giúp con tàu khó bị phát hiện bằng sonar của phía Đồng Minh.[5]
Chế tạo
U-486 được đặt hàng vào ngày 5 tháng 6, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke AG ở Kiel vào ngày 8 tháng 5, 1943.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 2, 1944,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 22 tháng 3, 1944[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Gerhard Meyer.[1]
Lịch sử hoạt động
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5, U-486 được điều sang Chi hạm đội U-boat 11 từ ngày 1 tháng 11, 1944 để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất
Sau khi di chuyển từ cảng Kiel, Đức đến các cảng Horten, Na Uy, rồi đến cảng Egersund (cùng tại Na Uy, giữa Stavanger và Kristiansand) vào đầu tháng 11, 1944,[3] U-486 khởi hành từ Egersund vào ngày 26 tháng 11 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GI-UK giữa các quần đảo Shetland và Faroe để vòng qua quần đảo Anh nhằm hoạt động tại vùng biển Đại Tây Dương về phía Tây Ireland (Khu vực tiếp cận phía Tây) và tại eo biển Manche.[6]
Vào ngày 18 tháng 12, U-486 phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Silverlaurel 6.142 GRT thuộc Đoàn tàu BTC-10 ở vị trí về phía Nam hải đăng Eddystone, tại tọa độ 50°07′B 4°40′T / 50,117°B 4,667°T.[7] Sau đó đến ngày 24 tháng 12, nó lại đánh chìm tàu chở quân Bỉ Leopoldville 11.509 GRT thuộc Đoàn tàu WEP-3 ở vị trí 5 nmi (9,3 km) ngoài khơi bờ biển Cherbourg, Pháp, tại tọa độ 49°45′B 01°34′T / 49,75°B 1,567°T. Vụ đắm tàu này đã khiến 819 người, bao gồm 762 binh lính Hoa Kỳ, thiệt mạng.[8] Hai ngày sau đó 26 tháng 12, U-486 tiếp tục đánh chìm tàu frigate Anh HMS Capel, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho tàu frigate HMS Affleck.[9][10]
Vào ngày 30 tháng 12, U-486 bị một máy bay ném bom Vickers Wellington thuộc Liên đội 407 Không quân Hoàng gia Canada tấn công, nhưng nó thoát được mà không bị hư hại.[1] Con tàu rút lui ngược theo lộ trình cũ, và về đến cảng Bergen, Na Uy vào ngày 15 tháng 1, 1945.[3]
Chuyến tuần tra thứ hai – Bị mất
U-486 khởi hành từ cảng Bergen vào ngày 9 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai, cũng là chuyến cuối cùng.[11] Chỉ ba ngày sau đó, 12 tháng 4, nó bị tàu ngầm HMS Tapir của Hải quân Hoàng gia Anh phóng ngư lôi đánh chìm trong Bắc Hải về phía Tây Bắc Bergen, tại tọa độ 60°44′B 4°39′Đ / 60,733°B 4,65°Đ.[1] Toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn của U-486 đều đã tử trận.[1]
Xác tàu đắm của U-486 được khám phá bởi công ty dầu khí Na Uy Statoil vào tháng 3, 2013, ở độ sâu 250 m (820 ft) ngoài khơi bờ biển phía Tây Na Uy. Xác tàu đắm của U-486 nằm ở cách vị trí của chiếc tàu đồng đội U-864 khoảng 2 km (1,2 mi).[12]
Tóm tắt chiến công
U-486 đã đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 17.651 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 1.085 tấn, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu chiến khác tải trọng 1.085 tấn:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 2] | Số phận[13] |
---|---|---|---|---|
18 tháng 12, 1944 | Silverlaurel | ![]() |
6.142 | Bị đánh chìm |
24 tháng 12, 1944 | Leopoldville | ![]() |
11.509 | Bị đánh chìm |
26 tháng 12, 1944 | HMS Affleck | ![]() |
1.085 | Tổn thất toàn bộ |
26 tháng 12, 1944 | HMS Capel | ![]() |
1.085 | Bị đánh chìm |
Xem thêm
Tham khảo
Ghi chú
- ^ Với tên mã là Alberich, đặt theo tên Alberich, nhân vật thần thoại Đức có khả năng tàng hình.
- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
- ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. "The Type VIIC U-boat U-486". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. "Type VIIC". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c Helgason, Guðmundur. "War Patrols by German U-boat U-486". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Hamilton (2020), tr. 104-118.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-486 (first patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Silverlaurel – British Steam merchant". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Leopoldville – Belgian Troop transport". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "HMS Capel (K 470) – British Frigate". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "HMS Affleck (K 462) – British Frigate". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-486 (second patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2025.
- ^ "Nazi submarine wreck found off Norway". TheLocal.no. Agence France-Presse. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2013.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Ships hit by U-486". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
Thư mục
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). Quyển IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. Quyển 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Hamilton, Aaron S. (2020). "Acoustic camouflage". Total Undersea War: The Evolutionary Role of the Snorkel in Dönitz's U-Boat Fleet, 1944–1945 (bằng tiếng Anh). Seaforth Publishing. ISBN 978-1-5267-7883-3.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
- Helgason, Guðmundur. "The Type VIIC boat U-486". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- Hofmann, Markus. "U 486". Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2025.
- [1]