Châu Thành
|
||
---|---|---|
Huyện | ||
Huyện Châu Thành | ||
![]() Khu thương mại thị trấn Ngã Sáu | ||
Hành chính | ||
Quốc gia | ![]() | |
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | |
Tỉnh | Hậu Giang | |
Trung tâm hành chính | Thị trấn Ngã Sáu | |
Trụ sở UBND | Tỉnh lộ 925, ấp Thuận Hưng, thị trấn Ngã Sáu | |
Phân chia hành chính | 2 thị trấn, 6 xã | |
Thành lập | 1913 | |
Giải thể | 1/7/2025[1] | |
Địa lý | ||
Tọa độ: 9°55′22″B 105°48′37″Đ / 9,92278°B 105,81028°Đ | ||
| ||
Diện tích | 140,86 km²[2] | |
Dân số (31/12/2024) | ||
Tổng cộng | 107.543 người[2] | |
Mật độ | 763 người/km² | |
Dân tộc | Kinh, Hoa, Khmer | |
Khác | ||
Mã hành chính | 933[3] | |
Biển số xe | 95-G1-R1 | |
Châu Thành là một huyện cũ thuộc tỉnh Hậu Giang cũ, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Châu Thành là cửa ngõ của tỉnh Hậu Giang, cách thành phố Vị Thanh 25 km về hướng đông bắc và cách trung tâm thành phố Cần Thơ 10 km,[4] có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng và huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
- Phía tây giáp huyện Châu Thành A và huyện Phụng Hiệp
- Phía nam giáp thành phố Ngã Bảy
- Phía bắc giáp quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.
Địa hình, địa mạo
Nhìn chung tương đối bằng phẳng, bề mặt bị chia cắt bởi hệ thống kênh rạch chằng chịt. Cao độ trung bình từ 0,3m – 1,2m; độ dốc nghiêng dần từ sông Hậu vào nội đồng theo hướng Bắc – Nam; Đông – Tây (từ phía bờ sông và phía Quốc lộ 1 vào trong đồng ruộng). Do đó, đã tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng gây khó khăn cho việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, cơ giới hoá nông nghiệp, phát triển giao thông đường bộ và ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người dân.[4]
Khí hậu
Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, với những đặc trưng chủ yếu sau:
- Chế độ nhiệt: trung bình năm khá cao khoảng 27,6 °C. Tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 26 °C, tháng 5 có nhiệt độ cao nhất là 30 °C.
- Chế độ mưa: trong năm hình thành hai mùa mưa và khô. Mùa mưa từ tháng 5–11 trùng với gió mùa Tây Nam. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau trùng với gió mùa Đông Bắc. Lượng mưa cả năm khoảng 1.309,8 mm, chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa tuy lớn nhưng phân bố không đều giữa các tháng trong mùa nên gây tình trạng ngập úng trong mùa mưa.
- Chế độ ẩm: cao và ổn định, ít biến đổi qua các năm, trung bình cả năm 81,8%, thấp nhất là 74% vào tháng 3 và cao nhất là 86% vào tháng 10.
- Chế độ nắng: số giờ nắng trong năm khá cao khoảng 2.612,6 giờ/năm.
- Chế độ gió: phổ biến với hai hướng gió chính là gió mùa Tây Nam thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 11, thổi vào từ vịnh Thái Lan, mang theo nhiều hơi nước nên gây mưa; và gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, thổi từ lục địa sang nên khô và nóng. Ngoài ra, khoảng từ tháng 2 đến tháng 4 còn có gió chướng, trong mùa mưa còn xuất hiện các cơn lốc xoáy bất ngờ, gây ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.[4]
Thủy văn
Chế độ thủy văn trên địa bàn Huyện chịu tác động của 3 yếu tố: dòng chảy chính sông Hậu cùng với 4 nhánh sông: Cái Côn, Cái Dầu, Mái Dầm và Cái Cui; chế độ mưa nội tại và chế độ thủy triều biển Đông.
Thủy triều biển Đông: chế độ bán nhật triều với 2 kỳ triều cường (1 và 15 âm lịch) và 2 kỳ triều kém (7 và 23 âm lịch) trong mỗi tháng, thời gian mỗi kỳ kéo dài 2-3 ngày. Thủy triều biển Đông theo sông Hậu và kênh rạch tác động vào khu vực phía Bắc khá mạnh, yếu dần khi vào sâu trong nội đồng (5–10 km). Biên độ triều chênh lệch khá lớn nên có tác dụng lớn trong việc tưới tiêu cho hầu hết diện tích đất đai trên địa bàn.
Chế độ dòng chảy trên sông rạch: chia thành 2 mùa rõ rệt bao gồm:
- Mùa kiệt: nối tiếp mùa lũ từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Mặc dù lưu lượng nước trên sông, rạch thấp nhưng do tác động của thủy triều và do huyện nằm cạnh sông Hậu nên toàn bộ diện tích có thể khai thác khả năng tưới tự chảy.
- Mùa lũ: bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 11. Dòng chảy của lũ thời kỳ đầu tập trung trong lòng dẫn, sau đó vượt qua bờ bao tràn vào đồng ruộng gây ngập lụt. Tuy nhiên vào mùa lũ việc sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Huyện ít bị ảnh hưởng do hệ thống đê bao đã khá hoàn chỉnh.[4]
Tài nguyên đất
Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 nhóm đất chính là đất phù sa, đất phèn và đất líp, Trong đó:
- Nhóm đất phù sa: diện tích khoảng 4.579 ha, chiếm 32,51% diện tích tự nhiên, bao gồm các loại như Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf); đất phù sa gley (Pg); đất phù sa có đốm rỉ P(f); đất phù sa có tầng loang lỗ, có kết von giả Pf(c).
- Nhóm đất phèn: diện tích khoảng 100 ha, chiếm 0,71% diện tích tự nhiên, bao gồm các loại như Đất phèn hoạt động đã thủy phân rất sâu >80 cm (Srj3); đất phèn hoạt động đã thủy phân sâu 50–80 cm (Srj2).
- Nhóm líp: diện tích khoảng 8.263,23 ha, chiếm 58,66% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung dọc theo các tuyến kênh rạch, các trục lộ giao thông lớn, các cụm, tuyến dân cư tập trung. Đất không bị ngập lũ, thành phần lý hóa tính đã bị thay đổi nhiều do quá trình sử dụng.
Ngoài ra, đất sông, kênh, rạch có diện tích 1.144,04 ha, chiếm 8,12% diện tích tự nhiên, phân đều trên địa bàn huyện.[4]
Tài nguyên nước
Nước mặt: huyện có nguồn nước mặt dồi dào do được cung cấp bởi hệ thống sông, kênh, rạch khá dày đặc trên địa bàn, đặc biệt là nguồn nước từ sông Hậu, sông Mái Dầm, sông Cái Côn. Đây là nguồn nước chủ yếu cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Nước dưới đất: được phân bố khá rộng, nước ngọt phân bố chủ yếu ở các tầng chứa nước Pleistoxen, Plioxen, Mioxen ở độ sâu 100 – 500m, một số nơi chưa đến 50m đã có nước dưới đất với chất lượng khá tốt.[4]
Hành chính
Huyện Châu Thành có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Ngã Sáu (huyện lỵ), Mái Dầm và 6 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Phước A, Đông Thạnh, Phú Hữu, Phú Tân với 59 ấp.
|
Lịch sử
Nguồn gốc địa danh Châu Thành
Trong văn học dân gian ở Nam Bộ có khá nhiều câu sử dụng từ "châu thành", mặc dù trong văn bản được viết hoa, nhưng "châu thành" ở đây được dùng như là một danh từ chung, chỉ nơi phố xá đông đúc, văn minh. Từ "châu thành" vốn là một từ Hán-Việt, được sử dụng khá phổ biến ở Nam Bộ. Khái niệm "châu thành" có thể hiểu là:
- Phố phường, thành thị, nơi dân cư đông đúc
- Khu vực chính một xứ hay một tỉnh
- Vùng đất bao quanh, ở cạnh thành phố, thị xã, đơn vị hành chính cấp huyện.
Sau khi chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, ngày 5 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp ra nghị định chia 6 tỉnh Nam Kỳ ra 24 hạt tham biện (arondissemnent). Viên cai trị hạt là tham biện (inspecteur, sau đổi là administrateur). Lỵ sở của hạt gọi là "châu thành", có chức năng như một "trung tâm hành chính" của hạt. Bắt đầu từ năm 1912, địa danh Châu Thành chính thức được đặt tên cho nhiều đơn vị hành chính cấp quận ở các tỉnh Nam Kỳ.
Ban đầu, "châu thành" chỉ các trung tâm hành chính, nơi có chợ búa, các cơ quan của hạt tham biện trú đóng. Sau khi thành lập các thị xã với chức năng "tỉnh lỵ", nó chiếm một phần diện tích của "châu thành", phần diện tích còn lại vẫn giữ tên cũ là quận Châu Thành và sau này là huyện Châu Thành. Hiện nay các thị xã tỉnh lỵ đó đều đã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh.
Huyện Châu Thành thuộc tỉnh Hậu Giang ngày nay chính là quận Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ thời Pháp thuộc. Khu vực trung tâm thành phố Cần Thơ ngày nay khi đó vẫn nằm trong quận Châu Thành. Trong giai đoạn 1992–2003, huyện Châu Thành tiếp tục trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ cho đến khi tỉnh này bị giải thể vào đầu năm 2004.
Thời Pháp thuộc
Năm 1913, thực dân Pháp thành lập quận Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ. Ban đầu, quận Châu Thành gồm 2 tổng với 23 làng trực thuộc như sau (theo thống kê năm 1917):
- Tổng Định Bảo có 12 làng: Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú Lợi, Tân An, Tân Hòa Tây, Tân Thạnh Đông, Thạnh An, Thạnh Mỹ, Thới Bình, Thường Đông, Thường Thạnh Đông.
- Tổng An Trường có 11 làng: An Hòa, Đình Hòa, Đông Lợi, Đông Thành, Đông Thành Trung, Mỹ Chánh, Mỹ Thuận, Phù Ly, Tân Lược, Tân Lược, Tân Phong, Tân Quới.
Ngày 10 tháng 7 năm 1921, địa giới hành chính của quận được điều chỉnh. Về sau, tổng An Trường được giao cho quận Trà Ôn (lúc bấy giờ cùng thuộc tỉnh Cần Thơ) quản lý. Đến thời Việt Nam Cộng hòa, tổng An Trường thuộc địa bàn quận Bình Minh của tỉnh Vĩnh Long. Cũng sau này, thực dân Pháp cho hợp nhất một số làng và lấy tên gọi mới cho các làng mới sáp nhập.
Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định về việc thành lập các thị xã Bạc Liêu, Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch Giá có Ủy ban thị xã, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là thị xã Cần Thơ. Thị xã Cần Thơ được thành lập trên phần đất làng Tân An thuộc quận Châu Thành trước đó.
Ngày 24 tháng 12 năm 1932, quận Châu Thành đổi tên thành quận Cái Răng, dinh quận ở gần chợ Cái Răng. Tên quận mới được lấy theo tên gọi nơi đặt quận lỵ mới là Cái Răng (thuộc làng Thường Thạnh), còn trước đó quận lỵ quận Châu Thành cũ đặt ngay tại tỉnh lỵ Cần Thơ (thuộc làng Tân An).
Ngày 27 tháng 6 năm 1934, quận lấy lại tên cũ là Châu Thành, dinh quận lại dời về dinh Xã Tây (nay là UBND thành phố Cần Thơ).
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng 8 năm 1946, huyện Châu Thành tách một phần để thành lập thị xã Cần Thơ.
Giai đoạn 1956–1975
Sau năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đặt quận Châu Thành thuộc tỉnh Phong Dinh, quận lỵ đặt tại xã Tân An (nay thuộc khu vực quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ). Tuy nhiên, sau này quận lỵ lại dời về Cái Răng lần nữa. Từ năm 1956 đến năm 1970, tỉnh lỵ Cần Thơ của tỉnh Phong Dinh cũng nằm trong khu vực xã Tân An, quận Châu Thành. Cũng trong giai đoạn này, một phần của quận Châu Thành cũng được tách ra để thành lập thêm các quận Thuận Nhơn, Phong Điền và Phong Thuận.
Ngày 2 tháng 7 năm 1962, tách một phần đất của quận Châu Thành để lập thêm quận Khắc Nhơn (quận lỵ đặt tại Bảy Ngàn).
Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên quận Khắc Nhơn thành quận Thuận Nhơn. Sau đó quận lỵ quận Thuận Nhơn cũng được dời về Một Ngàn. Quận Thuận Nhơn trước năm 1975 gồm 5 xã: Thạnh Hòa, Tân Bình, Tân Hòa, Chủ Thiện, Lệ Tâm. Quận lỵ đặt tại Một Ngàn, về mặt hành chánh thuộc xã Tân Hòa.
Ngày 26 tháng 5 năm 1966, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Phong Điền thuộc tỉnh Phong Dinh được trên cơ sở tách một phần đất của các quận Châu Thành, Phong Phú, Thuận Nhơn trước đó. Quận Phong Điền khi đó gồm 5 xã: Nhơn Nghĩa, Nhơn Ái, Trường Long, Mỹ Khánh, Cầu Nhiếm. Trong đó, xã Cầu Nhiếm được thành lập do tách một phần đất của các xã Tân Thới và Trường Thành cùng thuộc quận Phong Phú.
Năm 1970, lại tách các xã Phú Hữu, Đông Phú ra khỏi quận Châu Thành hợp với các xã Xuân Hòa, An Lạc Thôn, Phong Nẫm của quận Kế Sách, tỉnh Ba Xuyên trước đó để thành lập thêm quận Phong Thuận trực thuộc tỉnh Phong Dinh. Quận Phong Thuận khi đó gồm 5 xã: Phú Hữu, Đông Phú, Xuân Hòa, An Lạc Thôn, Phong Nẫm. Quận lỵ đặt tại Cái Côn, về mặt hành chánh thuộc xã An Lạc Thôn.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Sắc lệnh số 115-SL/NV[5] về việc tách các xã Tân An, Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền cùng thuộc quận Châu Thành để thành lập thị xã Cần Thơ.
Cho tới năm trước 1975, quận Châu Thành có 8 xã: Thạnh An, Tân Phú Thạnh, Thường Thạnh, Thường Thạnh Đông, An Bình, Giai Xuân, Long Tuyền, Phú Thứ. Quận lỵ đặt tại Cái Răng, về mặt hành chánh thuộc xã Thường Thạnh.
Chính quyền Cách mạng
Sau năm 1956, huyện Châu Thành vẫn trực thuộc tỉnh Cần Thơ.
Tháng 10 năm 1966, chia huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ thành huyện Châu Thành A và huyện Châu Thành B.
Cuối năm 1967, hợp nhất huyện Châu Thành A và huyện Châu Thành B thành huyện Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập huyện Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A và huyện Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành.
Năm 1965, Tỉnh ủy Cần Thơ ban hành Quyết định về việc:
- Chia xã Trường Thành thuộc huyện Ô Môn thành hai xã là xã Trường Thành và xã Trường Long.
- Chuyển giao xã Trường Long về cho huyện Châu Thành A quản lý.
Năm 1973, chia xã Trường Long thành xã Trường Long và xã Trường Long Tây. Trong đó, địa bàn xã Trường Long Tây thuộc huyện Châu Thành A trùng với địa bàn xã Lệ Tâm thuộc quận Thuận Nhơn, tỉnh Phong Dinh của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Giai đoạn 1975–2003
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam của tỉnh Cần Thơ đã giải thể các quận Thuận Nhơn, Phong Điền, Phong Thuận trước đó; đồng thời vẫn đặt huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ như trước. Huyện lỵ là thị trấn Cái Răng, được thành lập do tách đất từ xã Thường Thạnh. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng có sự điều chỉnh các xã thuộc huyện Châu Thành như sau:
- Sáp nhập 3 xã: Xuân Hòa, An Lạc Thôn và Phong Nẫm về huyện Kế Sách như trước.
- Sáp nhập xã Chủ Thiện (trước đó thuộc quận Thuận Nhơn) vào xã Nhơn Nghĩa.
- Giải thể xã Lệ Tâm và đổi tên xã này thành xã Trường Long Tây. Đồng thời, một phần nhỏ diện tích của xã Lệ Tâm trước đó được sáp nhập vào xã Trường Xuân thuộc huyện Ô Môn.
- Giải thể xã Cầu Nhiếm để sáp nhập trở lại vào địa bàn 2 xã: Tân Thới và Trường Thành của huyện Ô Môn như trước.
- Sáp nhập xã Đông Phước trước đó thuộc quận Phụng Hiệp về cho huyện Châu Thành quản lý.
- Sáp nhập 2 xã: Thạnh Hòa và Tân Bình (trước đó thuộc quận Thuận Nhơn) về cho huyện Phụng Hiệp quản lý. Đồng thời, tách một phần diện tích đất của xã Thạnh Hòa để thành lập xã Thạnh Xuân của huyện Châu Thành.
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 245-NQ/TW[6] về việc hợp nhất tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 19/NQ[7] về việc hợp nhất tỉnh Cần Thơ (bao gồm cả huyện Thốt Nốt của tỉnh Long Xuyên), tỉnh Sóc Trăng thành một tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Ngày 24 tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Nghị định số 3/NQ/1976[8] về việc hợp nhất tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Hậu Giang.
Ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 17/QĐ-76 về việc hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Hậu Giang.
Huyện Châu Thành thuộc tỉnh Hậu Giang với huyện lỵ là thị trấn Cái Răng.
Tháng 12 năm 1976, lại sáp nhập 2 xã: Thạnh An và Phú Thứ thành xã Phú An.
Huyện Châu Thành có 16 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Cái Răng và 15 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Thạnh, Giai Xuân, Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú An, Phú Hữu, Tân Hòa, Tân Phú Thạnh, Thạnh Xuân, Thới An Đông, Trường Long, Trường Long Tây.
Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP[9] về việc sáp nhập 2 xã: Mỹ Khánh, Giai Xuân và 3 ấp: Thới Thuận, Thới Hòa, Thới Ngươn của xã Thới An Đông thuộc huyện Châu Thành vào thành phố Cần Thơ thuộc tỉnh Hậu Giang.
Huyện Châu Thành còn lại 13 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Cái Răng và 12 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Thạnh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú An, Phú Hữu, Tân Hòa, Tân Phú Thạnh, Thạnh Xuân, Trường Long, Trường Long Tây.
Ngày 15 tháng 9 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 70-HĐBT[10] về việc:
- Chia xã Phú Hữu thành 3 xã: Phú Hòa, Phú Hữu, Phú Tân.
- Chia xã Đông Phước thành 3 xã: Đông An, Đông Phước, Đông Sơn.
- Chia xã Nhơn Nghĩa thành xã Nhơn Hòa và xã Nhơn Nghĩa.
- Chia xã Trường Long Tây thành 3 xã: Trường Bình, Trường Hưng, Trường Lộc.
- Chia xã Tân Hòa thành xã Tân Hòa và xã Tân Thuận.
Ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 128-HĐBT[11] về việc:
- Hợp nhất 2 xã: Thường Thạnh và Thường Thạnh Đông thành xã Đông Thạnh.
- Hợp nhất 3 xã: Phú Hữu, Phú Hòa và Phú Tân thành xã Phú Hữu.
- Hợp nhất 3 xã: Đông Phước, Đông Sơn và Đông An thành xã Đông Phước.
- Hợp nhất 2 xã: Nhơn Nghĩa và Nhơn Hòa thành xã Nhơn Nghĩa.
- Hợp nhất 3 xã: Trường Lộc, Trường Hưng và Trường Bình thành xã Trường Long Tây.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội ban hành Nghị quyết[12] về việc chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng.
Huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ có 14 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Cái Răng và 13 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Thạnh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú An, Phú Hữu, Tân Hòa, Tân Phú Thạnh, Tân Thuận, Thạnh Xuân, Trường Long, Trường Long Tây.
Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP[13] về việc:
- Tái lập huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Cần Thơ trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành.
- Huyện Châu Thành A có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 xã: Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Tân Hòa, Tân Phú Thạnh, Tân Thuận, Thạnh Xuân, Trường Long, Trường Long Tây.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để tái lập huyện Châu Thành A, huyện Châu Thành có 18.851 ha diện tích tự nhiên và 121.689 nhân khẩu; có 6 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Cái Răng và 5 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Thạnh, Phú An, Phú Hữu.
Ngày 10 tháng 7 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 37/2001/NĐ-CP[14] về việc:
- Thành lập xã Phú Hữu A trên cơ sở 1.799 ha diện tích tự nhiên và 10.593 nhân khẩu của xã Phú Hữu.
- Thành lập thị trấn Ngã Sáu trên cơ sở 1.100 ha diện tích tự nhiên và 5.530 nhân khẩu của xã Đông Phước.
- Thành lập xã Đông Phước A trên cơ sở 2.258 ha diện tích tự nhiên và 9.290 nhân khẩu của xã Đông Phước.
Huyện Châu Thành có 9 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 2 thị trấn: Cái Răng, Ngã Sáu và 7 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Phước A, Đông Thạnh, Phú An, Phú Hữu, Phú Hữu A.
Từ năm 2004 đến nay
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11[15] về việc:
- Chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang.
- Điều chỉnh một phần của huyện Châu Thành, bao gồm: thị trấn Cái Răng; các ấp Thạnh Mỹ, Thạnh Huề, Thạnh Thắng, Yên Hạ và 176 ha diện tích cùng với 2.216 người của ấp Phú Quới thuộc xã Đông Thạnh; các ấp Thạnh Hóa, Thạnh Hưng, Thạnh Thuận, An Hưng, Thạnh Phú, Phú Khánh, Khánh Bình và 254,19 ha diện tích cùng với 1.806 người của ấp Phú Hưng thuộc xã Phú An; các ấp Phú Thành, Phú Thạnh, Phú Thuận, Phú Thuận A và 304,61 ha diện tích cùng với 1.262 người của ấp Phú Lợi thuộc xã Đông Phú được giao về cho thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương quản lý. Tỉnh Hậu Giang quản lý phần còn lại của huyện Châu Thành.
Ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ ban hành:
- Nghị định số 05/2004/NĐ-CP[16] về việc điều chỉnh toàn bộ 246,37 ha diện tích tự nhiên và 13.968 nhân khẩu của thị trấn Cái Răng; 1.035,81 ha diện tích tự nhiên và 10.431 nhân khẩu của xã Đông Thạnh; 2.013,29 ha diện tích tự nhiên và 12.781 nhân khẩu của xã Phú An; 806,66 ha diện tích tự nhiên và 6.386 nhân khẩu của xã Đông Phú thuộc huyện Châu Thành để thành lập các phường Lê Bình, Thường Thạnh, Phú Thứ, Tân Phú thuộc quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.
- Nghị định số 06/2004/NĐ-CP[17] về việc sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Châu Thành có 14.578,91 ha diện tích tự nhiên và 81.194 nhân khẩu; có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Ngã Sáu (huyện lỵ) và 7 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Phước A, Đông Thạnh, Phú An, Phú Hữu, Phú Hữu A.
Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 37/NQ-CP[18] về việc thành lập xã Phú Tân trên cơ sở điều chỉnh 1.637 ha diện tích tự nhiên và 12.054 nhân khẩu của xã Phú Hữu.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính xã, huyện Châu Thành có 13.454,37 ha diện tích tự nhiên và 89.242 nhân khẩu; có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Ngã Sáu và 8 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Phước A, Đông Thạnh, Phú An, Phú Hữu, Phú Hữu A, Phú Tân.
Ngày 24 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP[19] về việc thành lập thị trấn Mái Dầm trên cơ sở toàn bộ 1.601,68 ha diện tích tự nhiên và 11.737 nhân khẩu của xã Phú Hữu A.
Sau khi thành lập thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành có 13.454 ha diện tích tự nhiên và 85.429 nhân khẩu; có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Ngã Sáu (huyện lỵ), Mái Dầm và 7 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Phước A, Đông Thạnh, Phú An, Phú Hữu, Phú Tân.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14[20] về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hậu Giang (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, sáp nhập xã Phú An vào thị trấn Ngã Sáu và xã Đông Thạnh.
Huyện Châu Thành có 2 thị trấn và 6 xã.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15[21] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 12 tháng 6 năm 2025). Theo đó, sáp nhập tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng vào thành phố Cần Thơ.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 203/2025/QH15[1] về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện trong cả nước từ ngày 1 tháng 7 năm 2025.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Giai đoạn 2016–2020, giá trị sản xuất (giá so sánh 2010) đạt 74.827 tỷ đồng. Tỷ trọng giá trị sản xuất (theo giá tăng thêm thực tế): khu vực nông, lâm và thủy sản 4,86%; khu vực công nghiệp – xây dựng tăng 69,14%; khu vực thương mại – dịch vụ 26%. Cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp thủy sản. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 16.918 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước 2.135 tỷ đồng, trong đó thu nội địa tăng bình quân 10%/năm; tổng thu ngân sách địa phương 1.646 tỷ đồng; chi đầu tư phát triển 425 tỷ đồng.[4]
Nông, lâm nghiệp – thủy sản
Giai đoạn 2011–2019, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản (giá so sánh năm 2010) tăng bình quân 5,93%/năm, đạt 1.153.000 triệu đồng năm 2019 và tăng 425.767 triệu đồng so với năm 2011.
- Trồng trọt
- Cây lúa: Năm 2019, diện tích canh tác khoảng 15 ha giảm 5.160 ha so với năm 2011, tổng sản lượng lương thực đạt 279.824 tấn giảm 23.747 tấn so với năm 2011.
- Hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày: Năm 2019 đạt 1.599 ha giảm 1.758 ha so với năm 2011, tổng sản lượng đạt 12.462 tấn, giảm 7.203 tấn so với năm 2011.
- Cây lâu năm: Năm 2019, diện tích đất trồng cây lâu năm vẫn giữ vững khoảng 5.696 ha, tăng 292 ha so với năm 2011; tổng sản lượng đạt 92.175 tấn, tăng 55.879 tấn so với năm 2011.[4]
- Cây ăn quả: Nguồn thu nhập chính của người dân vùng này là trồng lúa song vùng này đang chuyển đổi cơ cấu thiên về chuyên canh đặc sản vùng rất mạnh, một số loại trái cây được ưa chuộng như bưởi năm roi, bưởi ruột đỏ, sầu riêng. Nơi này nhà nào cũng nuôi một vài con heo, một số gia đình chuyên nuôi vịt chạy đồng, hiện này một số nông dân bắt đầu đầu tư nuôi bò sữa. Nơi này cũng là truyền thống của các thương lái mua bán trái cây, họ mua của nông dân rồi mang đi các chợ nổi Cái Răng, Phụng Hiệp, Ngã tư Cây Dương, Lái Thiêu (Thành phố Hồ Chí Minh), Bạc Liêu, Vĩnh Kim (Tiền Giang), Cần Thơ,... bán lại cho các vựa trái cây.
- Chăn nuôi
Năm 2019, tổng đàn gia súc 6.061 con, giảm 5.531 con so với năm 2011 và đàn gia cầm là 257.110 triệu con tăng 44.950 triệu con so với năm 2011.[4]
- Thủy sản
Trong những năm qua, mặc dù thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nhưng ngành thủy sản đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Năm 2019, tổng diện tích nuôi đạt 296 ha, giảm 104 ha so với năm 2011.[4]
Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng
Trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sản xuất công nghiệp vẫn phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao, sản phẩm đa dạng, phong phú đáp ứng kịp thời theo nhu cầu của thị trường, với các ngành nghề chủ lực như xay xát, gạch nung, hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, chế biến thủy sản,... Năm 2019, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) là 13.906.068 triệu đồng, tăng 12.719.596 triệu đồng so với năm 2011; số cơ sở sản xuất công nghiệp là 664 cơ sở, tăng 76 cơ sở so với năm 2011; số lao động là 12.033 người, tăng 9.657 người so với năm 2011.[4]
Công nghiệp: Cụm công nghiệp Nam Sông Hậu với nhà máy đóng tàu VinaSin mới vừa khởi công xây dựng, nhà máy Giấy lớn nhất Việt Nam đang được xây dựng. Thủ công, mỹ nghệ: Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu với nguyên liệu là lục bình. Sản phẩm thủ công từ cây Lục Bình cũng đang phát triển mạnh, xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới và là những mặt hàng lưu niệm rất quý ở một số hãng dịch vụ du lịch của đồng bằng.
Xây dựng: Giai đoạn 2011–2020, huyện đã thực hiện được nhiều công trình, dự án từ vốn ngân sách Nhà nước, ngoài ra huyện còn huy động thêm các nguồn vốn xã hội hóa cho đầu tư phát triển trên địa bàn nên đã góp phần thúc đẩy sự phát triển các loại hình dịch vụ - thương mại, nhà ở dân cư và nâng cao đời sống nhân dân; bộ mặt đô thị và nông thôn của huyện đã có bước chuyển biến, đổi mới rõ rệt.[4]
Thương mại – dịch vụ
Giai đoạn 2016–2020,giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) là 13.499 tỷ đồng, tăng 76,18% so với giai đoạn 2011–2015; tổng mức hàng hóa bán ra và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân 25,67%/năm; số cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ là 1.722 cơ sở (năm 2020).[4]
Xã hội
Giáo dục: Hiện nay trên địa bàn huyện có 2 trường trung học phổ thông: Ngã Sáu, Phú Hữu.
Dân số
|
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành |
Năm 2009, huyện Châu Thành có dân số là 81.372 người, trong đó: dân số ở nông thôn là 73.854 người, dân số ở thành thị là 7.518 người. Mật độ dân số đạt 605 người/km².[22]
Năm 2018, huyện Châu Thành có diện tích là 140,90 km², dân số là 82.135 người, mật độ dân số đạt 583 người/km².[23]
Năm 2020, dân số toàn huyện là 88.079 người, trong đó khu vực thành thị 21.617 người, chiếm 24,54%; khu vực nông thôn 66.462 người, chiếm 75,46%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 10,11‰, mật độ dân số bình quân là 624 người/km², cao nhất là xã Đông Thạnh (942 người/km²), thấp nhất là xã Đông Phước (462 người/km²).
Giai đoạn 2011–2020, huyện đã tập trung huy động các nguồn lực và thực hiện các giải pháp xóa đói giảm nghèo, nên đã giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4,2%; đẩy mạnh công tác đào tạo và giải quyết việc làm nên tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn huyện đạt 50%, giới thiệu, giải quyết việc làm khoảng 38.985 lao động có việc làm trong và ngoài huyện. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 45 triệu đồng/người/năm.[4]
Năm 2021, huyện có diện tích 140,86 km², dân số năm 2021 là 87.703 người, mật độ dân số đạt 620 người/km².[24]Lỗi chú thích: Không có </ref>
để đóng thẻ <ref>
Huyện Châu Thành có diện tích 140,86 km², dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2024 là 107.543 người,[2] mật độ dân số đạt 763 người/km².
Văn hóa - Du lịch
Di tích lịch sử
- Khu di tích tỉnh ủy Hậu Giang ở xã Phú Hữu cũ nay là xã Phú Tân, nằm trên địa phận rạch Ngã Lá.
- Di tích Nam kỳ khởi nghĩa xã Phú Hữu A cũ nay thuộc thị trấn Mái Dầm, trước đây được xây dựng bên kia bờ sông Phú Lễ thuộc xã Phú Hữu cũ, nay là xã Phú Tân. Khu di tích Nam Kỳ Khởi Nghĩa hiện nay được xây dựng lại trên bờ sông đối diện khu di tích cũ, gần Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu A, chợ Mái Dầm nay là thị trấn Mái Dầm
- Nơi này cũng là truyền thống của võ thuật cổ truyền dân tộc, thời chiến tranh xuất hiện nhiều người có võ thuật rất tinh thông. Những năm 80 thế kỷ 20 những đoàn Lân sư rồng nổi tiếng khắp miền Tây nam bộ, thời gian sau truyền thống này đã không được dân gìn giữ tốt đã mai một, thời bấy giờ các đầu Lân và trang phục được lưu giữ trong nhà dân. Những thanh thiếu niên nay đã già, một số đã qua đời, đoàn Lân tiêu biểu như ông 2 Bê, ông Tư Lác, ông 8 Bé,...
Ẩm thực
Huyện Châu Thành có truyền thống của võ thuật cổ truyền dân tộc, ngoài ra huyện có các đặc sản nổi tiếng như "Bưởi năm roi Phú Hữu", "Mắm nêm Phú Nghĩa",...
Làng Phú Nghĩa còn có một đặc sản mà ít ai biết đến đó là Mắm Nêm, mắm nêm là loại mắm làm từ con cá Cơm một loại cá nhỏ bằng đầu đũa ăn cơm, có màu trắng, sau khi mua từ các ghe Đáy ngoài sông Hậu (Basac còn gọi là sông Cái) người dân sẽ rửa sạch cá (không làm cá) và tiến hành ủ theo những bí quyết của họ, sau 2 đến 3 tháng tuỳ vào thời tiết có nhiều nắng hay không sản phẩm đã dùng được, mùi vị mắm Nêm thơm, ngọt dịu; đặc sản này một thời không thể thiếu trong các bữa cơm của các địa chủ trong vùng, những nhà giàu có thường dự trữ từ 5 đến 10 khạp da bò để ăn suốt năm.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Huyện Châu Thành nằm giữa thành phố Cần Thơ và thành phố Ngã Bảy, đồng thời phía đông là sông Hậu nên thuận lợi về mặt giao thông. Quốc lộ 1 bao bọc phần phía tây nối liền Cần Thơ và thành phố Ngã Bảy qua xã Đông Phước A, còn phía đông là đường Nam Sông Hậu chạy qua địa bàn huyện và dọc theo sông Hậu. Trong khi đó tỉnh lộ 925 chạy từ Quốc lộ 1 nối trực tiếp với trung tâm huyện tại thị trấn Ngã Sáu.
Quốc lộ 1: Đoạn qua huyện dài khoảng 0,6 km, mặt bê tông nhựa rộng 11,0m, nền đường rộng 12,0m.
Đường Nam Sông Hậu: Đoạn qua huyện với chiều dài khoảng 9,0 km, mặt láng nhựa rộng 8,0m, nền đường rộng 9,0m và là tuyến giao thông quan trọng phục vụ cho phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn.
Đường tỉnh ĐT.925, đoạn qua huyện có chiều dài 11,2 km, mặt láng nhựa rộng 5,5m, nền đường rộng 9,0m. Hiện nay tuyến này đang được đầu tư nâng cấp, trong tương lai sẽ là trục trung tâm để phát triển mạng lưới giao thông của huyện.
Đường tỉnh ĐT.927C đoạn qua huyện có chiều dài 8,2 km, có trục giao thông huyết mạch kết nối thành phố Ngã Bảy và thành phố Cần Thơ; kết nối với Quốc lộ 1 với Đường Nam Sông Hậu. Mặt khác, với vị trí tuyến đường song song và cách sông Cái Côn khoảng 200m, tạo điều kiện kết nối giao thông thủy – bộ liên hoàn, là điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển công nghiệp, xây dựng, đô thị, nâng cao năng lực cạnh tranh và góp phần tạo động lực cho sự phát triển của huyện.
Đường huyện có 6 tuyến đang được đầu tư và nâng cấp.
Giao thông nông thôn: trong những năm qua đã được phát triển với tốc độ nhanh, tạo điều kiện đi lại thuận lợi cho người dân.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Cần Thơ – Cà Mau đi qua đang được xây dựng.[4]
Giao thông đường thủy
Giao thông thủy của huyện bao gồm các tuyến như sông Hậu, sông Mái Dầm, sông Cái Dầu và nhiều tuyến kênh, rạch vừa và nhỏ như Cái Cui, kênh Thầy Cai, rạch Vàm Gỗ,... góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và vận chuyển hàng hoá của nhân dân.[4]
Phía đông nam là Kênh Xáng Quản Lộ - Phụng Hiệp, tuyến giao thông thủy từ sông Hậu kéo dài đến Cà Mau.
Chú thích
- ^ a b "Nghị quyết số 203/2025/QH15 về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. ngày 16 tháng 6 năm 2025. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2025.
- ^ a b c UBND tỉnh Hậu Giang (ngày 22 tháng 4 năm 2025). "Tờ trình số 89/TTr-UBND về việc Dự thảo Nghị quyết về chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hậu Giang năm 2025". Trang thông tin điện tử Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Hậu Giang. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2025.
- ^ Tổng cục Thống kê
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p "Báo cáo thuyết minh tổng hợp Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021–2030 và kế hoạch sử dụng đất năm 2021 của huyện Châu Thành – tỉnh Hậu Giang". Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang. ngày 4 tháng 11 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ Sắc lệnh số 115-SL/NV về việc cải biến xã Tân An thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh và phần đất phụ cận thành thị xã Cần Thơ.
- ^ "Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh". Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. ngày 20 tháng 9 năm 1975. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Nghị quyết số 19/NQ về việc điều chỉnh việc hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam". Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. ngày 20 tháng 12 năm 1975. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2025.
- ^ "Nghị định số 3/NQ/1976 về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam". Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. ngày 24 tháng 2 năm 1976. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2025.
- ^ "Quyết định số 174-CP về việc điều chỉnh địa giới xã thuộc tỉnh Hậu Giang". Thư viện pháp luật. ngày 21 tháng 4 năm 1979.
- ^ "Quyết định số 70-HĐBT về việc chia xã để thành lập xã mới thuộc tỉnh Hậu Giang". Thư viện pháp luật. ngày 15 tháng 9 năm 1981.
- ^ Quyết định số 128-HĐBT về việc phân vạch, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Châu Thành, Mỹ Xuyên, Ô Môn, Phụng Hiệp, Thạnh Trị, Thốt Nốt, Vị Thanh, Vĩnh Châu, tỉnh Hậu Giang.
- ^ "Nghị quyết về việc phân vạch lại địa giới hành chính một số tỉnh". Thư viện pháp luật. ngày 26 tháng 12 năm 1991.
- ^ "Nghị định số 64/2000/NĐ-CP năm 2000 về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để tái lập huyện Châu Thành A, tỉnh Cần Thơ". Thư viện pháp luật. ngày 6 tháng 11 năm 2000.
- ^ "Nghị định số 37/2001/NĐ-CP thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Châu Thành và Châu Thành A, tỉnh Cần Thơ". Thư viện pháp luật. ngày 10 tháng 7 năm 2001.
- ^ "Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh". Thư viện pháp luật. ngày 26 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2015.
- ^ "Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thuỷ, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạch, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương". Thư viện pháp luật. ngày 2 tháng 1 năm 2004. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2015.
- ^ "Nghị định số 06/2004/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số xã thuộc huyện Châu Thành và Châu Thành A trực thuộc tỉnh Hậu Giang". Thư viện pháp luật. ngày 2 tháng 1 năm 2004. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2015.
- ^ "Nghị quyết số 37/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã, thị trấn thuộc huyện Châu Thành A, huyện Châu Thành, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang". Thư viện pháp luật. ngày 24 tháng 8 năm 2009.
- ^ "Nghị quyết số 06/NQ-CP năm 2011 về việc thành lập thị trấn Mái Dầm thuộc huyện Châu Thành; điều chỉnh địa giới hành chính xã để thành lập thị trấn Búng Tàu thuộc huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang". Thư viện pháp luật. ngày 24 tháng 1 năm 2011.
- ^ "Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14 năm 2020 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hậu Giang". Thư viện pháp luật. ngày 10 tháng 1 năm 2020.
- ^ "Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh". Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. ngày 12 tháng 6 năm 2025. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2025.
- ^ "Giới thiệu chung về huyện Châu Thành". Trang web Ủy ban Nhân dân huyện Châu Thành. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ "Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2018 phân theo huyện/thị xã/thành phố thuộc tỉnh Hậu Giang". Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang. ngày 31 tháng 12 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang (ngày 13 tháng 2 năm 2023). "Niên giám Thống kê tỉnh Hậu Giang năm 2021". Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang. tr. 11 – 17. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.