![]() | |
Tôn giáo | Phật giáo |
---|---|
Pháp danh | (Mahā) Moggallāna Thera, Maudgalyāyana Sthavira |
Cá nhân | |
Sinh | Thế kỷ 6-5 TCN[1] Làng Kolita, Ma-kiệt-đà (nay thuộc bang Bihar của Ấn Độ) |
Mất | Thế kỷ 6-5 TCN Hang Đá Đen (Kālasilā), Ma-kiệt-đà |
Chức vụ | |
Chức danh | Đệ tử hàng đầu, thượng thủ bên trái của Phật Thích-ca Mâu-ni
Vị thượng thủ thứ hai của Phật Thích-ca Mâu-ni |
Hoạt động tôn giáo | |
Sư phụ | Phật Thích-ca Mâu-ni |
Đồ đệ | nhiều người, gồm cả La-hầu-la |
Mục-kiền-liên (Maudgalyāyana; tiếng Pali: Moggallāna, tiếng Tạng tiêu chuẩn: མོའུ་འགལ་གྱི་བུ་, chữ Hán: 目犍連; tên Latinh hóa: Maudgalyayana, Mahamaudgalyayana hay Mahāmoggallāna), còn gọi là Đại Mục-kiền-liên hoặc tên khai sinh Kolita, là một trong những đệ tử thân cận nhất của Phật. Ông được mô tả là đồng thời với các đệ tử như Tu-bồ-đề, Xá-lợi-phất (tiếng Pali: Sāriputta) và Đại Ca-diếp (tiếng Pali: Mahākassapa); ông được xem là vị thứ hai trong hai đệ tử nam hàng đầu của Phật, cùng với Xá-lợi-phất. Theo truyền thống, Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất trở thành những du sĩ tâm linh từ thuở trẻ. Sau một thời gian tìm kiếm chân lý tâm linh, họ tiếp xúc với giáo pháp Phật qua những bài kệ đã trở nên nổi tiếng rộng rãi trong thế giới Phật giáo. Cuối cùng họ gặp Phật và thọ đại giới làm Tỳ kheo dưới sự dẫn dắt của Phật. Không lâu sai đó, Mục-kiền-liên chứng giác ngộ A-la-hán và trở nên nổi tiếng là bậc "Thần thông đệ nhất" (tiếng Pali: Manda Galỳayana) trong hàng Thanh văn đệ tử của Phật.
Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất có tình bạn tâm linh sâu sắc. Trong nghệ thuật Phật giáo, họ được khắc họa là hai đệ tử đứng hầu Phật, và có vai trò bổ trợ nhau trong giảng dạy. Với tư cách một bậc thầy, Mục-kiền-liên nổi tiếng về các thần thông, và thường được mô tả dùng chúng trong phương pháp giáo hóa. Trong nhiều bộ kinh điển Phật giáo sớm, Mục-kiền-liên đóng vai trò then chốt trong việc tái hợp Tăng đoàn sau khi Đề-bà-đạt-đa gây ra chia rẽ. Hơn nữa, ông còn gắn với các truyện kể về việc tạo ra pho tượng Phật đầu tiên. Mục-kiền-liên mất ở tuổi tám mươi tư, bị sát hại do sự sắp đặt của một giáo phái đối địch. Cái chết bạo lực này được kinh điển Phật giáo giảng giải là kết quả nghiệp của việc ông đã giết chính cha mẹ mình trong một tiền kiếp.
Qua các văn bản hậu kinh tạng, Mục-kiền-liên trở nên nổi tiếng về hiếu đạo với câu chuyện phổ biến ông hồi hướng công đức cho mẹ. Điều này dẫn đến truyền thống Lễ Vu Lan ở nhiều xứ Phật giáo, nơi người ta hồi hướng công đức cho tổ tiên. Mục-kiền-liên cũng thường được gắn với thiền định và đôi khi với các trước tác Vi Diệu Pháp, cũng như với tông phái Pháp Tạng bộ. Thế kỷ 19, xá lợi được cho là của ông được phát hiện và được tôn thờ rộng rãi. Vị tương ứng nữ của Mục-kiền-liên trong Phật giáo là Liên Hoa Sắc (tiếng Pali: Uppalavaṇṇā).
Đặc điểm cá nhân
Trong Kinh tạng Pali, Mục-kiền-liên được mô tả có làn da như hoa sen xanh hoặc mây mưa. Truyền khẩu ở Sri Lanka nói rằng đó là vì ông từng sinh vào địa ngục trong nhiều đời.[2][3] Học giả Sri Lanka Karaluvinna cho rằng nguyên bản có lẽ muốn nói da sậm màu, không phải xanh.[3] Trong Kinh tạng Đại chúng bộ, chép rằng ông "đẹp đẽ, dễ mến, khôn ngoan, thông tuệ, đầy công đức ...", theo bản dịch của Migot.[4]
Một số tư liệu Trung Quốc giải thích tộc danh Maudgalyāyana liên hệ đến một loại đậu mà một vị tổ của tộc đã ăn.[5] Tuy nhiên, nhà Ấn Độ học Ernst Windisch liên hệ nhân vật Mục-kiền-liên với nhân vật Maudgalya (Mugdala) trong sử thi Mahabharata của tiếng Phạn, để giải thích tên gọi. Windisch tin rằng truyện về nhà tiên tri Maudgalya đã ảnh hưởng tới truyện về Mục-kiền-liên, vì cả hai đều kể chuyện du hành lên trời. Tác giả Edward J. Thomas lại cho rằng điều này không có nhiều khả năng. Dù vậy, Windisch vẫn coi Mục-kiền-liên là nhân vật có thật trong lịch sử.[6]
Cuộc đời
Gặp Phật
Theo kinh truyện Phật giáo, Mục-kiền-liên sinh trong một gia đình ở làng Kolita (còn gọi là Kulika, trước đây nghĩ là Kul hiện đại[7] ở Silao nhưng nay xác định là Juafardih[8][9] gần Nalanda), và được đặt tên theo làng. Mẹ ông tên là là Mogallāni, cha là nột trưởng làng.[2][7] Kolita sinh đúng ngày với Upatiṣya (tiếng Pali: Upatissa); sau gọi là Xá-lợi-phất (tiếng Phạn: Śāriputra), và hai người là bạn từ thuở nhỏ.[2][10][11]
Kolita và Upatiṣya sớm quan tâm đến đời sống tâm linh. Một ngày khi đang xem hội, một cảm giác xao động và khẩn thiết tâm linh ập đến khiến họ muốn xuất gia rời bỏ đời sống thế tục và bắt đầu đời sống tu hành dưới sự hướng dẫn của du sĩ Sañjaya Vairatiputra (tiếng Pali: Sañjaya Belatthiputta).[note 1] Trong các kinh tạng Theravāda và Đại chúng bộ, Sañjaya được mô tả là một thầy thuộc truyền thống chủ nghĩa hoài nghi Ấn Độ, không tin vào tri thức hay luận lý, và không trả lời các câu hỏi siêu hình. Vì không thỏa mãn nhu cầu tâm linh của Kolita và Upatiṣya, họ rời đi.[13][14][15] Tuy nhiên, trong Kinh tạng Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, Đại Tạng kinh Trung Quốc và các tư liệu Tạng kinh, ông được mô tả là bậc thầy có những phẩm chất đáng kính như thiên nhãn và lòng nhiệt thành tôn giáo. Ông lâm bệnh và qua đời, khiến hai đệ tử tiếp tục tìm kiếm. Trong một số bản, ông còn dự tri sự xuất hiện của Phật qua các thị kiến của mình.[16][17]
Dù thế nào, Kolita và Upatiṣya vẫn rời đi và tiếp tục tìm đạo, chia nhau đi các hướng. Họ ước hẹn ai tìm thấy đạt được chân lý bất tử của đời sống tâm linh trước sẽ dạy lại cho người kia. Sau đó là câu chuyện dẫn đến việc Kolita và Upatiṣya quy y Phật, vốn được xem là một lớp truyện rất cổ trong truyền thống văn bản.[18] Upatiṣya gặp một Tỳ kheo Phật giáo tên A-thuyết-thị (tiếng Pali: Aśvajit), một trong năm đệ tử đầu tiên của Phật, đang đi khất thực.[2][7] Trong bản Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, Phật đã sai ông đến đó để giáo hóa Upatiṣya.[19] Phong thái an nhiên của A-thuyết-thị khiến Upatiṣya tiến lại gần để tìm hiểu.[2][20] A-thuyết-thị nói ông mới thọ giới không lâu và chỉ có thể giảng một ít. Rồi ông diễn đạt tinh yếu giáo pháp của Phật bằng những lời này:[21][22][note 2][24]
“ | Vạn vật từ duyên khởi
Bậc Giác Ngộ từng thuyết Và rồi từ duyên diệt Đại Đạo Sư đã truyền. |
” |
Những lời này giúp Upatiṣya chứng bậc đầu trên con đường tu tập Phật giáo. Sau đó Upatiṣya báo cho Kolita về khám phá của mình và Kolita cũng chứng bậc đầu. Hai người, cùng với năm trăm đệ tử của Sañjaya, đến thọ đại giới làm Tỳ kheo dưới Phật ở Tinh xá Trúc Lâm (Pali: Veḷuvana).[20][25] Từ khi thọ giới, Upatiṣya và Kolita lần lượt được gọi là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, Maudgalyāyana là tên tộc của Kolita.[26] Sau khi xuất gia, tất cả trừ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều chứng A-la-hán (tiếng Pali: arahant; bậc cuối của giác ngộ).[21][25] Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất chứng giác ngộ sau đó một đến hai tuần; Mục-kiền-liên tại Ma-kiệt-đà, ở một làng gọi là Kallavala.[25][27] Lúc ấy, hôn trầm làm chướng ngại ông trên đường tu. Sau khi được thấy Phật trong thị hiện chỉ cách vượt qua nó, ông đột phá và chứng ngộ.[21][25]
Một số bản ghi chép khác thì nói ông quán Mười tám giới và bốn pháp chân đế trong tiến trình này.[28] Trong Chú giải Kinh Pháp cú bằng Pali, có câu hỏi vì sao hai vị chứng ngộ chậm hơn các học trò cũ của Sañjaya. Câu trả lời là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên như hai vị vua, cần thời gian chuẩn bị lâu hơn người thường trước chuyến đi. Nói cách khác, thành tựu của họ sâu rộng hơn nên cần nhiều thời gian hơn.[27]
Lời tuyên thuyết ngắn của A-thuyết-thị, được gọi là bài kệ kệ Duyên sinh ("Vạn vật từ duyên khởi.../Các pháp do duyên sinh..."), từ lâu được mô tả là tinh yếu giáo lý Phật, và là câu kệ được khắc nhiều nhất trong thế giới Phật giáo.[20][21][22] Có mặt trong mọi truyền thống Phật giáo,[7] kệ này được khắc trên nhiều chất liệu, thấy trên nhiều tượng Phật và phù đồ (chứa xá lợi), và dùng trong các nghi thức an vị.[20][29] Theo nhà Ấn Độ học Oldenberg và dịch giả Thanissaro Bhikkhu, bài kệ được đề nghị trong một chiếu dụ của A Dục Vương (tiếng Pali: asoka) làm đề tài học và quán niệm.[30][31][note 3] Vai trò của bài kệ chưa được hiểu hoàn toàn trong học giới. Ngoài bản chất phức tạp của tuyên bố, cũng có nhận xét rằng không nơi nào kệ được gán trực tiếp cho Phật theo đúng hình thức này, cho thấy đây là phần tóm lược hay diễn giải của riêng A-thuyết-thị.[34][20] T.W. Rhys Davids cho rằng bài kệ có thể gây ấn tượng đặc biệt với Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất vì nhấn mạnh nhân duyên đặc trưng của Phật giáo.[21] Triết gia Paul Carus giải thích kệ là một phản ứng táo bạo, bài trừ tín điều đối với truyền thống Bà-la-môn, vì nó "phủ nhận các phép mầu can thiệp siêu nhiên bằng cách thừa nhận trọn vẹn luật nhân quả như điều không thể bác bỏ",[29] trong khi thiền sư Suzuki liên tưởng đến kinh nghiệm vượt ngoài trí năng, "nơi ý niệm này nối tiếp ý niệm kia rồi chung cuộc ở kết luận hay phán đoán".[35][36]
Tuy trong truyền thống Pali, Mục-kiền-liên được mô tả là A-la-hán sẽ không còn tái sinh, nhưng trong các truyền thống Đại thừa đôi khi được hiểu khác. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm 6 (Thọ ký), Phật được nói là thọ ký rằng các đệ tử Đại Ca-diếp, Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên và Mục-kiền-liên sẽ thành Phật trong tương lai.[37][25]
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên

Trong ngày Mục-kiền-liên thọ giới, Phật cho phép ông và Xá-lợi-phất ngồi vào chỗ của hai đệ tử nam thượng thủ.[2] Theo văn bản tiếng Pali Buddhavaṃsa, mỗi vị Phật đều có một cặp đệ tử thượng thủ như vậy.[38] Vì họ mới xuất gia, một số Tỳ kheo khác bất bình khi Phật trao vinh dự đó. Phật đáp rằng thâm niên tu hành không phải là tiêu chí duy nhất cho việc bổ nhiệm, rồi giải thích thêm bằng cách kể một chuyện quá khứ.[2][39] Phật nói cả hai vị đã phát nguyện từ nhiều đời để làm đệ tử thượng thủ của Ngài. Họ phát nguyện từ thời Phật Vô Thượng Kiến (tiếng Pali: Aṇomadassī) trước đó, khi Mục-kiền-liên là cư sĩ tên Sirivadha. Sirivaddha được bạn mình (Xá-lợi-phất trong một đời trước) khuyên và phát tâm muốn trở thành đệ tử thượng thủ dưới một vị Phật tương lai. Rồi ông thỉnh Phật Vô Thượng Kiến và Tăng đoàn (Saṃgha) thọ trai tại nhà mình trong bảy ngày, trong đó ông lần đầu phát nguyện làm đệ tử thượng thủ. Sau đó, ông và Xá-lợi-phất tiếp tục làm thiện nhiều đời, cho đến thời Thích-ca Mâu-ni.[2] Sau khi Phật bổ nhiệm Mục-kiền-liên làm thượng thủ, ông được gọi là Đại Mục-kiền-liên (Mahā-Maudgalyāyana, mahā nghĩa là 'lớn').[40] Tôn hiệu này vừa là vinh dự, vừa để phân biệt với những người trùng tên.[41] Các văn bản hậu kinh tạng mô tả Mục-kiền-liên là đệ tử nam thượng thủ thứ hai, sau Xá-lợi-phất. Các kinh tạng sớm đồng ý rằng Xá-lợi-phất trội hơn Mục-kiền-liên về mặt tâm linh; chuyên môn của họ được mô tả là Thần thông (tiếng Phạn: ṛddhi, tiếng Pali: iddhi) với Mục-kiền-liên, và trí tuệ với Xá-lợi-phất.[42][note 4] Trong nghệ thuật Phật giáo và văn học Phật giáo, chư Phật thường được mô tả có hai đệ tử chính (tiếng Nhật: niky ōji, Tạng cổ: mchog zung) ở hai bên-trong trường hợp Thích-ca Mâu-ni, hai đệ tử thường là Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất. Dù các kinh tạng Phật giáo khác nhau có quan điểm khác nhau về công hạnh của từng vị, trong tất cả các kinh tạng, Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất đều được công nhận là hai đệ tử chính của Phật. Điều này cũng được xác nhận qua hình tượng học tìm thấy trong khảo cổ, nơi hai vị thường được vẽ/khắc họa đứng hầu thầy mình.[44] Ngoài ra, Mục-kiền-liên thường được liệt kê trong danh sách 'Tứ đại đệ tử' (bính âm: sida shengwen)[45] và trong nhóm tám A-la-hán.[46] Dẫu những mô thức này phổ biến trong cả kinh văn lẫn khảo cổ, người ta cũng ghi nhận trong hình tượng học về sau, A-nan-đà và Ma-ha-ca-diếp lại được mô tả nhiều hơn, còn Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất ít hơn.[47] Cuộc đời của Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất gắn bó chặt chẽ. Họ sinh cùng ngày và qua đời cùng thời. Gia đình hai bên là bạn bè lâu đời. Khi học đạo, Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất cùng làm môn sinh dưới một thầy.[48][49] Sau khi giúp nhau tìm ra tinh yếu đời sống tâm linh, tình bạn vẫn bền chặt. Trong nhiều kinh, họ luôn tỏ lòng kính trọng và thương mến nhau.[2] Chẳng hạn, khi Xá-lợi-phất lâm bệnh, Mục-kiền-liên được mô tả đã dùng thần thông để tìm thuốc cho bạn.[50] Xá-lợi-phất được coi là đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật, còn Mục-kiền-liên chỉ dưới ông về mặt trí tuệ.[2][51] Điều kết nối họ như bạn đạo là lòng kính yêu Phật, điều cả hai thường bày tỏ.[52]
Vai trò trong Tăng đoàn
Nhiều giáo pháp trong Kinh tạng Pali truyền thống được gán cho Mục-kiền-liên, gồm nhiều bài kệ trong Theragatha và nhiều kinh khác trong Tương Ưng Bộ Kinh. Ngoài ra còn nhiều đoạn mô tả các sự kiện trong đời ông. Ông được xem là uyên bác và sáng suốt về giới đức, triết lý và thiền định. Khi so sánh Xá-lợi-phất với Mục-kiền-liên, Phật dùng ẩn dụ người phụ nữ sinh con đối với Xá-lợi-phất-ông đưa người học trò này đến bậc đầu trên đường tu (tiếng Pali: sotāpanna). Còn Mục-kiền-liên được sánh với người thầy rèn luyện đứa trẻ, đưa học trò tiến xa hơn trên con đường giác ngộ.[2][53]

Kinh văn mô tả Phật đặt niềm tin lớn nơi Mục-kiền-liên với tư cách một vị thầy.[2] Phật thường tán dương lời dạy của ông, và đôi khi nhờ ông thuyết pháp thay.[54][55] Mục-kiền-liên cũng được giao trách nhiệm giáo dưỡng La-hầu-la, con trai Phật. Một dịp khác, Phật nhờ ông tuyên bố lệnh cấm một nhóm Tỳ kheo ở Kitigara, những người có hành vi gây tai tiếng trong vùng.[56] Hơn nữa, Mục-kiền-liên đóng vai trò quan trọng trong cuộc chia rẽ do Đề-bà-đạt-đa gây ra. Nhờ khả năng giao tiếp với chư thiên, ông biết Đề-bà-đạt-đa hành xử không đúng. Ông nắm được thông tin Đề-bà-đạt-đa cầu viện Thái tử A Xà Thế và hai người trở thành một liên minh nguy hiểm. Mục-kiền-liên liền báo Phật.[57][58] Sau này, khi Đề-bà-đạt-đa đã thành công chia tách một bộ phận khỏi cộng đồng Phật giáo, Phật nhờ Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất thuyết phục đoàn đệ tử đó trở về với Phật; theo bản Pali, họ đã làm được.[2][59][note 5] Vì Đề-bà-đạt-đa tưởng họ đến để quy phục mình, nên ông ta lơ là cảnh giác. Họ bèn thuyết phục các Tỳ kheo khác quay về trong lúc Đề-bà-đạt-đa đang ngủ. Sau khi đưa đoàn tách rời về lại với Phật, Mục-kiền-liên bày tỏ sự kinh ngạc trước hành xử của Đề-bà-đạt-đa. Phật giảng rằng Đề-bà-đạt-đa vốn đã vậy trong nhiều đời. Trong các bản Luật Tạng của một số kinh tạng, nỗ lực thuyết phục bộ phận tách rời gặp phải sự ngoan cố và thất bại. Phật học gia người Pháp André Bareau tin rằng bản sau phản ánh lịch sử xác thực hơn; ông dẫn thêm ghi chép của cao tăng Huyền Trang mười hai thế kỷ sau rằng giáo phái của Đề-bà-đạt-đa vẫn còn tồn tại.[61]
Giáo hóa bằng thần thông

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Mục-kiền-liên được tán dương bậc nhất về thần thông, danh hiệu ông chia sẻ với vị tương ứng nữ Liên Hoa Sắc.[62][63][64] Trong việc giáo hóa, Mục-kiền-liên thường dựa vào các năng lực này. Nhiều chỗ trong Kinh tạng Pali thuật Mục-kiền-liên đi đến và trò chuyện với Ngạ quỷ (các linh hồn trong đường dữ) để chỉ cho họ thấy hoàn cảnh khủng khiếp của mình. Ông giúp họ hiểu nỗi khổ của chính mình, để họ được giải thoát hoặc chấp nhận nó. Rồi ông trình bày việc đó lại với Phật, và Phật dùng các ví dụ ấy trong giảng pháp.[2][59] Tương tự, ông được mô tả đàm luận với chư chư thiên và phạm thiên (brahmas), và hỏi chư thiên đã làm công đức gì để sinh về cõi trời.[59][65] Tóm lại, tuệ quán và thần thông của Mục-kiền-liên không chỉ lợi ích tự thân mà còn lợi ích quần chúng. Như sử gia Julie Gifford nói, ông dẫn dắt người khác "bằng cách cung cấp một bản đồ vũ trụ luận và nghiệp báo của luân hồi".[66]
Mục-kiền-liên có thể dùng năng lực biết tâm để khuyên dạy đúng căn cơ, giúp học trò chóng đạt quả vị.[67] Ông cũng dùng thần thông để uốn nắn không chỉ Tỳ kheo mà cả chư thiên và các loài khác. Có lần một số Tỳ kheo làm ồn khi ngồi trong cùng tòa nhà với Phật. Mục-kiền-liên làm rung chuyển tòa nhà để dạy họ biết nhiếp thân khẩu ý.[59][68] Nhưng ví dụ thường được nhắc nhất về thần thông của ông là chiến thắng rồng (nāga) Nandopananda, điều đòi hỏi sự thành thục các jhāna (các tầng thiền).[25][51] Nhiều màn thị hiện thần thông của ông gián tiếp khẳng định Phật là bậc thầy vĩ đại: người ta tự hỏi, nếu đệ tử đã có năng lực như vậy, thì vị thầy còn cao siêu đến đâu.[69]
Cứu mẹ

Câu chuyện Mục-kiền-liên đi tìm mẹ sau khi bà qua đời rất phổ biến. Ngoài việc dùng để minh họa nguyên lý nghiệp báo và tái sinh,[70][71] tại Trung Hoa câu chuyện mang một nhấn mạnh mới. Ở đó Mục-kiền-liên được gọi là "Mulian", và chuyện của ông được kể theo lối kết hợp giáo hóa và diễn xướng, nhắc nhở người đời bổn phận với thân nhân quá cố.[72][73] Phiên bản sớm nhất là bản kinh tiếng Phạn Vu Lan Bồn,[74] câu chuyện được phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên qua các truyện dân gian khuyến thiện như Biến văn của Trung Hoa (ví dụ Biến văn Mục Liên cứu mẹ thoát khỏi u đồ).[75][76] Trong đa số phiên bản, Mục-kiền-liên dùng thần thông để tìm cha mẹ đã khuất và xem họ tái sinh vào cõi nào. Tuy tìm được cha ở cõi trời, ông không thấy mẹ và cầu Phật giúp. Phật đưa ông đến nơi mẹ đang ở-một địa ngục-nhưng ông không giúp được mẹ. Phật khuyên ông làm phước để hồi hướng công đức cho mẹ, nhờ đó bà được sinh về cõi tốt hơn.[76][77][78] Trong bản Lào, ông đến thế giới của Diêm vương, chủ cõi âm, nhưng thấy cõi này trống vắng. Diêm vương nói với ông rằng ông cho phép chúng sinh địa ngục ra khỏi cửa ngục để được tự do một ngày-tức ngày rằm tháng chín âm lịch. Trong ngày ấy, chúng sinh địa ngục có thể nhận hồi hướng công đức và được giải thoát, nếu có người hồi hướng cho họ.[79] Một số bản Trung Hoa kể Mục-kiền-liên thấy mẹ tái sinh làm ngạ quỷ. Khi ông cố cúng bà qua bàn thờ gia tiên, đồ ăn đều bốc cháy. Ông bèn thưa hỏi Phật, và Phật khuyên làm phước cúng Tăng đoàn rồi hồi hướng cho mẹ. Nhờ đó không chỉ mẹ được sinh thiên, mà còn có thể giúp bảy đời cha mẹ và tổ tiên.[80][81] Việc cúng dường được cho là hiệu quả nhất khi làm tập thể, từ đó dẫn đến sự hình thành Lễ Vu Lan.[82]
Nhiều học giả lưu ý các điểm tương đồng giữa chuyện Mục-kiền-liên cứu mẹ và chuyện Phra Malai, một truyền thuyết có ảnh hưởng ở Thái Lan và Lào.[83][84] Quả vậy, trong một số truyện dân gian, Phra Malai được đem so với Mục-kiền-liên.[84] Tương tự, câu chuyện Mục-kiền-liên cũng được cho là đã ảnh hưởng đến Sử thi Vua Gesar ở Trung Á, trong đó Mục-kiền-liên là mẫu cho nhân vật nhà vua.[85]
Làm tượng Ưu-đà-diên
Một truyện khác liên quan Mục-kiền-liên, ghi trong bản dịch Hán văn của Tăng nhất A-hàm, trong Jinakālamālī tiếng Thái và trong Paññāsajātakā hậu kinh tạng, kể về việc tạo ra pho tượng Phật đầu tiên gọi là tượng Phật của vua Ưu-đà-diên. Truyện thuật rằng Phật lên cõi trời Đao Lợi (tiếng Pali: Tāvatiṃsa) để thuyết cho mẹ nghe. Vua Ưu-đà-diên (tiếng Pali: Udāyana) quá nhớ Phật nên thỉnh Mục-kiền-liên dùng thần thông đưa ba mươi hai thợ thủ công lên cõi trời để tạc tượng tại đó.[86][87] Pho tượng được tạc bằng gỗ trầm hương; nhiều cố gắng đã được thực hiện để kết nối tượng này với các tượng Phật về sau ở các vùng và quốc gia khác.[88][89] Dù truyện truyền thống nói tượng Ưu-đà-diên là tượng đầu tiên, nhưng có lẽ đã có nhiều tượng Phật trước đó, do cả vua chúa và dân thường làm.[90] Cũng có thể các truyện này đều cùng phát sinh từ một mô-típ chung về "tượng Phật đầu tiên".[91]
Qua đời

Theo truyền thống Pali, Mục-kiền-liên qua đời vào tháng Mười Một cùng năm với Phật nhập Niết-bàn, khi ông đang du hành ở Ma-kiệt-đà. Ông mất ở tuổi 84.[92] Một số bản nói các truyền thống đối địch ném đá ông đến chết; bản khác nói họ thuê cướp. Truyền thống Pali kể rằng các nhà sư Jain xúi giục một nhóm cướp do Samaṇa-guttaka cầm đầu giết Mục-kiền-liên vì ghen tị trước thành công của ông. Mục-kiền-liên thường thuyết về những lần ông đến thăm cõi trời và địa ngục, quả của đời sống có đạo đức và nguy hại của đời sống vô đạo. Vì vậy số người theo các truyền thống đối địch giảm dần.[3][53] Dù ai là kẻ sát hại, các nguồn đều đồng ý rằng ông bị giết một cách bạo lực tại hang Đá Đen (tiếng Pali: Kālasilā), ở núi Tiên Thôn (tiếng Pali: Isigili) gần Vương Xá (tiếng Pali: Rājagaha),[2][53] có thể tương ứng với đồi Udaya ngày nay.[93]
Lúc ấy Mục-kiền-liên độc cư ở một am trong rừng. Thấy bọn cướp đến, ông dùng thần thông ẩn thân. Chúng chỉ thấy am trống; lục soát khắp nơi cũng không thấy ai. Chúng bèn bỏ đi và trở lại vào ngày hôm sau, kéo dài sáu ngày; mỗi lần ông đều thoát bằng cách ấy.[94][95] Ngày thứ bảy, đột nhiên Mục-kiền-liên mất thần thông đã dùng bấy lâu. Ông nhận ra không thể thoát. Bọn cướp xông vào, đánh ông nhiều lần rồi bỏ mặc ông trong vũng máu; vội vã đi lấy tiền công.[2][96] Nhờ sức mạnh thân tâm lớn lao, ông tỉnh lại và gượng đi được đến chỗ Phật.[2][69] Có bản nói ông trở lại hang Đá Đen và viên tịch tại đó, giáo giới thân quyến trước khi mất. Bản khác nói ông mất trước mặt Phật.[25][97]
Có truyền kể rằng trong một tiền kiếp, Mục-kiền-liên là con trai duy nhất trong gia đình. Ông hiếu thuận, lo toàn việc nhà. Cha mẹ già, việc càng thêm nặng. Cha mẹ giục ông cưới vợ để đỡ đần, nhưng ông khước từ, khăng khăng tự mình làm. Mẹ nài nỉ mãi, ông mới cưới.[98] Vợ ông chăm sóc cha mẹ chồng một thời gian rồi sinh ác cảm với họ. Cô phàn nàn với chồng, nhưng ông không để ý. Một ngày, khi ông đi vắng, cô bèn vứt rác bừa bãi; khi ông về thì đổ lỗi cho cha mẹ mù lòa. Phàn nàn triền miên, cuối cùng ông mềm lòng và hứa "giải quyết" việc cha mẹ. Nói với cha mẹ rằng bà con ở xa mời, ông đánh xe bò chở cha mẹ vào rừng. Đến chỗ rừng sâu, ông xuống đi bộ theo xe, bảo phải canh chừng cướp vì vùng này hay bị cướp. Ông giả tiếng cướp la hét, giả vờ tấn công. Cha mẹ bảo ông lo thân (vì họ già và mù) và van xin "kẻ cướp" tha cho con mình. Trong lúc hai cụ kêu khóc, người con đánh chết cha mẹ rồi quăng xác vào rừng, trở về nhà.[98][99] Một bản khác trong chú giải Chuyện Tiền thân bằng Pali lại nói ông đã không nỡ xuống tay khi nghe những lời cha mẹ nói.[2][100]
Sau khi Mục-kiền-liên mất, có người hỏi vì sao ông không tự bảo vệ, và tại sao một vị A-la-hán với đệ nhất thần thông lại chịu chết thảm như vậy. Phật dạy rằng vì ông đã tạo ác nghiệp nặng trong tiền kiếp (giết cha mẹ là một trong năm Ngũ nghịch chịu quả nặng nhất), nên không tránh khỏi quả báo. Ông chấp nhận kết quả ấy.[101][25] Phật nói thêm rằng thần thông cũng không thể tránh được nghiệp, nhất là khi nghiệp ấy rất nặng.[92][25] Ngay sau khi bỏ mặc Mục-kiền-liên, bọn cướp đều bị xử tử. Học giả Tôn giáo James McDermott kết luận rằng hẳn có một "sự hội lưu" nghiệp giữa Mục-kiền-liên và bọn cướp, và viện dẫn vụ sát hại này để này làm bằng chứng rằng trong giáo lý Phật giáo, nghiệp của các cá nhân riêng biệt có thể tương tác.[96] Nhà Ấn Độ học Richard Gombrich nêu ví dụ này để chỉ ra điều khác: Mục-kiền-liên vẫn có thể chứng ngộ dù mang nghiệp nặng từ kiếp trước. Theo ông, điều này cho thấy Phật dạy ai cũng có thể chứng ngộ ngay trong đời này, hơn là nhất thiết phải tu tập tích lũy qua nhiều đời.[102]
Gifford suy đoán Mục-kiền-liên tin mình đang chịu quả của nghiệp nặng quá khứ. Ý thức ấy khiến ông muốn ngăn người khác lặp lại lầm lỗi và sống vô đạo. Có thể vì vậy ông tha thiết thuyết giảng về luật nghiệp báo.[103]
Sau khi Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất qua đời, Phật dạy Tăng đoàn nay trở nên ít đi, như cây khỏe mà có vài cành đã khô. Rồi Ngài nhắc rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường và phải hoại diệt.[93] Một số bản kể nhiều đệ tử của ông lâm bệnh và mất sau khi ông qua đời.[104]
Di sản

Trong lịch sử Phật giáo, Mục-kiền-liên được tôn kính vì nhiều lý do. Trong một số kinh tạng như Tạm Tạng kinh Pali (Pali Tipiṭak), ông được Phật nêu làm gương cho mọi Tỳ kheo noi theo.[2][63] Tên Pali Moggallāna từng được dùng làm pháp danh cho Tỳ kheo cho đến thế kỷ 12.[53]
Tại Đông Á, Mục-kiền-liên được tôn như biểu tượng của hiếu đạo và thần thông.[106][107] Ông có vai trò quan trọng trong nhiều truyền thống Đại thừa. Kinh Vu Lan Bồn là kinh Đại thừa chính mô tả việc Mục-kiền-liên cứu mẹ Bản mẫu:See above.[59][108] Kinh này có ảnh hưởng lớn với hơn sáu mươi bản bình luận-diễn giải được biên soạn.[74] Dù bản Phạn gốc đã cổ vũ hiếu đạo, các truyện Trung Hoa về sau chịu ảnh hưởng kinh Vu Lan Bồn càng nhấn mạnh hơn nữa. Đồng thời, các truyện này mô tả việc tạo phước và hiếu đạo như hai mặt không thể tách rời.[109] Kinh trở nên phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, dẫn đến các lễ Yulan Hui (Trung Quốc) và Obon (Nhật Bản).[110][75][111] Lễ này có thể là từ Trung Quốc truyền sang Nhật Bản vào thế kỷ 7,[112] và các lễ tương tự cũng được ghi nhận ở Ấn Độ (Avalamba), Lào và Việt Nam.[110][113] Lễ được cử hành vào tháng bảy âm lịch (Trung Quốc; nguyên là chỉ ngày rằm tháng Bảy, ngày Pravāraṇa[114]), hoặc từ 13 đến 15 tháng 7 (Nhật Bản). Tin rằng trong thời gian này, hương linh tổ tiên sinh làm pretas hay ngạ quỷ vất vưởng.[110][105][115] Ở Trung Quốc, đây là lúc an cư hằng năm của Tăng kết thúc (thường dịch là an cư mùa mưa, nhưng ở Trung Quốc là An cư mùa hạ).[116] Khi ấy Tăng chúng hoàn tất việc học và thiền định- và cũng một dịp lễ hội của Phật giáo.[117] Cho đến ngày nay, người ta làm phước và hồi hướng công đức qua nhiều nghi lễ trong dịp này để vong linh được tái sinh tốt hơn.[105][115] Lễ cũng được ưa chuộng bởi người không theo Phật giáo,[105] và các Đạo sĩ đã tích hợp lễ này vào nghi thức tang ma của họ.[118][119]
Lễ này có điểm tương đồng nổi bật với lý tưởng Nho giáo và Tân Nho giáo ở chỗ đề cao hiếu đạo.[120] Người ta nhận thấy câu chuyện cứu mẹ khỏi địa ngục giúp Phật giáo hòa nhập vào xã hội Trung Hoa. Khi ấy, do nhấn mạnh đời sống xuất thế, Phật giáo bị Nho gia phê phán là trái hiếu đạo vì Tăng không có con cháu để cúng tổ tiên.[74][82] Câu chuyện Mục-kiền-liên đã góp phần lớn để tháo gỡ vấn đề, và thường được nêu làm ví dụ điển hình về khả năng thích ứng của Phật giáo.[121] Một số học giả khác lại đề xuất vị thế của Phật giáo ở Ấn Độ so với Trung Hoa không khác nhiều, vì Phật giáo ở Ấn Độ cũng phải đối diện vấn đề hiếu đạo và xuất gia.[122] Một tác động khác là, ở Đông Á, câu chuyện góp phần chuyển trọng tâm của hiếu đạo về phía người mẹ, đồng thời tái định nghĩa thiên chức làm mẹ và nữ tính.[74]
Ngoài lễ Vu Lan, hình tượng Mục-kiền-liên còn đóng vai trò quan trọng trong lễ Māgha Pūjā ở Sri Lanka. Vào ngày này (ở Sri Lanka gọi là Navam Full Moon Poya), việc Phật bổ nhiệm Mục-kiền-liên làm đệ tử thượng thủ được kỷ niệm bằng các hoạt động tạo phước và bằng diễu hành.[123][124]
Có nhiều văn bản kinh tạng và hậu kinh tạng truyền thống gắn với Mục-kiền-liên. Trong truyền thống Theravāda, Thiên cung sự được hiểu là tập hợp các truyện do Mục-kiền-liên kể lại với Phật về những lần ông viếng thăm cõi trời.[125] Trong truyền thống Sarvāstivāda, Mục-kiền-liên được nói là tác giả các trước tác Vi Diệu Pháp gọi là Pháp uẩn túc luận và Prajñāptibhāsya,[126][127] dù trong một số kinh điển Phạn và Tạng, tác phẩm thứ nhất lại được gán cho Xá-lợi-phất.[128] Học giới hoài nghi việc Mục-kiền-liên thật sự là tác giả.[128] Tuy nhiên, họ tin rằng ông và một số đệ tử chính đã biên soạn các bảng (tiếng Phạn: mātṛkā, tiếng Pali: mātikā) làm công cụ ghi nhớ. Các bảng này về sau là nền tảng cho Vi Diệu Pháp.[129] Dù có các liên hệ với Vi Diệu Pháp, Huyền Trang thuật rằng trong chuyến thăm Ấn Độ, các Tỳ kheo ở đó tôn kính Xá-lợi-phất vì Abhidharma, còn tôn kính Mục-kiền-liên vì thiền định-căn gốc của thần thông.[130][131] Học giả Pháp André Migot đề xuất rằng trong phần lớn văn bản truyền thống, Mục-kiền-liên gắn với thiền định và thần thông, trái lại Xá-lợi-phất chuyên về trí tuệ và Vi Diệu Pháp.[131][132]
Cácttruyền thống cũng gắn Mục-kiền-liên với biểu tượng Bánh xe Luân hồi (tiếng Phạn: bbhavacakra, tiếng Pali: bbhavacakka). Các truyện trong Luật tạng Mūlasarvāstivāda và Divyāvadāna kể rằng một lần A-nan-đà tán dương các phẩm chất giảng dạy của Mục-kiền-liên trước Phật. Mục-kiền-liên là vị thầy rất được mến mộ, và các bài thuyết về các chốn tái sinh sau khi chết của ông rất được ưa nghe. Phật dạy rằng về sau, khó tìm được người như thế. Ngài cho vẽ một bức họa tại cổng tịnh xá Trúc Lâm để tôn vinh Mục-kiền-liên, mô tả Bánh xe Hiện hữu. Bánh xe biểu thị các cảnh giới trong vòng luân hồi, tam độc trong tâm (tham, sân, si) và giáo pháp Duyên khởi. Bánh xe nằm trong móng vuốt của Ma vương, nhưng cũng có hình tròn trắng biểu tượng Niết-bàn. Phật còn dạy phải thường trực cắt cử một Tỳ kheo đứng bên bức họa để giảng luật nghiệp báo cho khách thập phương.[133][134][135] Hình Bánh xe Luân hồi phổ biến khắp châu Á Phật giáo, một số còn xác nhận và mô tả mối liên hệ nguyên thủy với Mục-kiền-liên.[136]
Cuối cùng, có một truyền thống quy nguyên từ Mục-kiền-liên, hoặc từ một đệ tử của ông tên Dharmagupta: đó là bộ phái Pháp Tạng bộ, một trong các bộ phái Phật giáo sơ kỳ.[137][138]
Xá lợi
Sir Alexander Cunningham, The Bhilsa topes[139]
Theo một bản Jātaka Pali, Phật cho thu nhặt tro cốt Mục-kiền-liên và an trí vào một phù đồ tại cổng tinh xá Trúc Lâm.[2][140] Tuy nhiên, hai bản khác-một thuộc truyền thống Dharmaguptaka và một thuộc Mūlasarvāstivāda-kể rằng Cấp Cô Độc và các cư sĩ khác thỉnh cầu Phật dựng tháp tôn vinh Mục-kiền-liên.[141] Theo Divyāvadāna, A Dục Vương đã đến viếng phù đồ và cúng dường theo lời khuyên của Ưu-ba-cúc-đa.[3] Các thế kỷ sau đó, Huyền Trang và các cao tăng Trung Hoa khác ghi nhận có tháp thờ xá lợi Mục-kiền-liên dưới thành Mathura, và ở nhiều nơi khác ở Đông Bắc Ấn Độ. Tuy nhiên, tính đến năm 1999,[cập nhật] chưa nơi nào được xác nhận bằng khai quật khảo cổ.[142][143]

Một phát hiện khảo cổ quan trọng lại diễn ra ở nơi khác. Thế kỷ 19, Alexander Cunningham và trung úy Fred. C. Maisey tìm thấy các mảnh xương trong những hộp có khắc tên Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất, cả ở tháp Sanchi lẫn các phù đồ ở Satdhāra (Ấn Độ).[53][144] Các hộp chứa mảnh xương và vật thờ, trong đó có cả gỗ trầm mà Cunningham tin là đã dùng trên giàn hỏa thiêu của Xá-lợi-phất.[145] Phát hiện này quan trọng về nhiều phương diện, và qua đối chiếu niên đại thuộc thế kỷ 2 TCN.[146]
Ban đầu, Cunningham và Maisey chia nhau di vật và gửi về Anh. Do một số đồ của Cunningham bị mất khi tàu chìm, có học giả tin rằng xá lợi Sanchi đã mất.[147] Tuy nhiên, trong một nghiên cứu năm 2007, sử gia Torkel Brekke dùng nhiều tư liệu để lập luận rằng chính Maisey mang tất cả xá lợi về, không phải Cunningham; điều này có nghĩa xá lợi tới Anh đầy đủ. Sau đó, xá lợi được trao cho Bảo tàng Victoria và Albert (Luân Đôn) năm 1866.[148][note 6] Khi xá lợi được trao cho V&A, dư luận yêu cầu trả lại xá lợi về bản quán đã dấy lên. Lúc đầu bảo tàng xem đó là ý kiến thiểu số của cộng đồng Phật tử Anh; nhưng khi nhiều hội Phật giáo tại Ấn Độ và các nước Á châu quan tâm, sự việc trở nên nghiêm trọng. Cuối cùng, vì lý do ngoại giao, chính phủ Anh gây sức ép để bảo tàng hoàn trả xá lợi cùng các hộp nguyên bản. Sau nhiều thỉnh cầu và thư từ, xá lợi được đưa về Hội Đại Bồ-đề Sri Lanka (Maha Bodhi Society of Sri Lanka) năm 1947.[151][152] Năm 1952, xá lợi được chính thức an vị tại một phù đồ ở Sanchi (Ấn Độ), sau khi thỏa thuận rằng Phật tử sẽ tiếp tục trông coi; một loạt đại lễ đã được cử hành để tỏ lòng tôn kính. Xá lợi được rước đi nhiều nước Nam và Đông Nam Á, cả ở các nước Theravāda lẫn Đại thừa.[153][152] Đồng thời, Thủ tướng Ấn Độ Nehru nhân đó truyền đi thông điệp đoàn kết và khoan dung tôn giáo, và từ góc độ chính trị, tăng cường tính chính danh của nhà nước.[154] Quả vậy, ngay cả với các nước khác như Miến Điện-nơi xá lợi được rước sang-sự kiện giúp chính quyền củng cố chính danh, tạo đoàn kết và phục hưng sinh hoạt tôn giáo: "những mẩu xương nhỏ bé ấy không chỉ làm rung động hàng triệu tín đồ khắp thế giới, mà cả các chính phủ quốc gia", như nhà sử học mỹ thuật Jack Daulton viết. Vì lẽ đó, Miến Điện xin giữ lại một phần xá lợi. Trong các đại lễ có hàng trăm ngàn người tham dự, xá lợi được an trí tại Chùa Kaba Aye cùng năm với Ấn Độ.[155]
Sri Lanka cũng được một phần xá lợi, lưu tại Hội Đại Bồ-đề Sri Lanka, và phần này được trưng bày hằng năm vào dịp lễ tháng Năm.[156] Năm 2015, thế giới Công giáo bất ngờ khi Hội Đại Bồ-đề phá lệ, trưng xá lợi cho Giáo hoàng Phanxicô chiêm bái ngoài khung thời gian lễ hằng năm. Trước phê bình, vị lãnh đạo hội nói rằng từ 1984 chưa có giáo hoàng nào đặt chân vào một ngôi chùa Phật giáo, và rằng "các nhà lãnh đạo tôn giáo cần đóng vai trò tích cực để gắn kết cộng đồng thay vì chia rẽ".[157] Tại Sanchi (Ấn Độ), xá lợi được trưng bày hằng năm trong lễ hội Phật giáo quốc tế vào tháng 11. Tính đến 2016, triển lãm đón hàng trăm ngàn khách từ khắp thế giới, trong đó có công chúa Thái Lan Sirindhorn.[158][159]
Xem thêm
Liên kết ngoài
- Lịch sử Đức Mục Kiền Liên Lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2009 tại Wayback Machine
Chú giải
- ^ Theo một số tư liệu Trung Hoa, Mục-kiền-liên chờ đến khi mẹ qua đời, và chỉ xuất gia sau khi để tang ba năm. Song điều này có thể là yếu tố Nho giáo được thêm vào câu chuyện.[12]
- ^ Một số bộ phái, như Hóa địa bộ, ghi câu kệ theo cách khác, với một dòng nói về tính không của Pháp.[23]
- ^ Phần lớn học giả nghiêng về cách hiểu vua A Dục nói đến Sariputta Sutta. Tuy nhiên, đồng thuận này vẫn còn tạm thời.[32][33]
- ^ Mặc dù các kinh tạng ghi Xá-lợi-phất trội hơn Mục-kiền-liên, trong truyền thống dân gian Trung Hoa Mục-kiền-liên lại được ưa chuộng hơn, thường được mô tả như một pháp sư.[43]
- ^ Trong các kinh tạng Dharmaguptaka, Thuyết nhất thiết hữu bộ và Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, đây là đề xuất của chính hai ông, và họ xin phép Phật để đi.[60]
- ^ Khi ấy bảo tàng vẫn gọi là Bảo tàng Nam Kensington.[149] Ngay từ 1917, Louis Finot đã nói Cunningham không quan tâm xá lợi, mà chỉ chú ý đến các hộp.[150]
Tham khảo
Chú thích
- ^ Tobden Dorje, Choying (2017). The Complete Nyingma Tradition from Sutra to Tantra, Book 13: Philosophical Systems and Lines of Transmission. Shambhala Publications. tr. 463. ISBN 9781559394604.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t Malalasekera 1937.
- ^ a b c d Karaluvinna 2002, tr. 452.
- ^ Migot 1954, tr. 433.
- ^ Teiser 1996, tr. 119.
- ^ Thomas 1908, tr. 50.
- ^ a b c d Schumann 2004, tr. 94.
- ^ Ray, Purnima; Patil, C. B. (2014). Remembering Stalwarts: Biographical Sketches of Scholars from Archaeological Survey of India (bằng tiếng Anh). Director General, Archaeological Survey of India.
- ^ Saran, S.C.; Nikoshey, N.G.; Nayan, S.; Arif, A.; Saxena, N. (2008). "Excavations at Juafardih and its Identification with Kulika". Purātattva. 38: 59–73.
- ^ Thakur, Amarnath (1996). Buddha and Buddhist synods in India and abroad. Abhinav Publications. tr. 66. ISBN 9788170173175.
- ^ Rhys Davids 1908, tr. 768-9.
- ^ Ditzler, Pearce & Wheeler 2015, tr. 9.
- ^ Harvey 2013, tr. 14.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 1012-3.
- ^ Migot 1954, tr. 434.
- ^ Lamotte, E. (1947). "La légende du Buddha" [The legend of the Buddha]. Revue de l'histoire des religions (bằng tiếng Pháp). 134 (1–3): 65–6. doi:10.3406/rhr.1947.5599.
- ^ Migot 1954, tr. 430-2, 440, 448.
- ^ Migot 1954, tr. 426.
- ^ Migot 1954, tr. 432.
- ^ a b c d e Skilling 2003, tr. 273.
- ^ a b c d e Rhys Davids 1908, tr. 768.
- ^ a b Buswell & Lopez 2013, tr. 77.
- ^ Migot 1954, tr. 429, 439.
- ^ Rhys Davids 1908.
- ^ a b c d e f g h i j Buswell & Lopez 2013, tr. 499.
- ^ Migot 1954, tr. 412, 433.
- ^ a b Migot 1954, tr. 451-3.
- ^ Migot 1954, tr. 435, 438, 451.
- ^ a b Carus 1905, tr. 180.
- ^ Bhikkhu, Thanissaro (1993). "That the True Dhamma Might Last a Long Time: Readings Selected by King Asoka". Access to Insight (Legacy Edition). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2017.
- ^ Migot 1954, tr. 413.
- ^ Neelis 2011, tr. 89-90 n72.
- ^ Wilson (1856). "Buddhist Inscription of King Priyadarśi: Translation and Observations". Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland. 16. West Strand: John W. Parker and Son: 363–4.
- ^ De Casparis, J.G. (1990). "Expansion of Buddhism into South-east Asia" (PDF). Ancient Ceylon (14): 2. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2017.
- ^ Suzuki, D. T. (2007). Essays in Zen Buddhism. Grove Atlantic. ISBN 978-0-8021-9877-8.
- ^ Migot 1954, tr. 449.
- ^ Tsugunari, Kubo (2007). The Lotus Sutra (PDF). Akira, Yuyama biên dịch (ấn bản thứ 2). Berkeley, California: Numata Center for Buddhist Translation and Research. tr. 109–11. ISBN 978-1-886439-39-9. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2015.
- ^ Shaw 2013, tr. 455.
- ^ Epasinghe, Premasara (ngày 29 tháng 1 năm 2010). "Why Navam Poya is important?". The Island (Sri Lanka). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
- ^ Migot 1954.
- ^ Epstein, Ron (tháng 10 năm 2005). "Mahāmaudgalyāyana Visits Another Planet: A Selection from the Scripture Which Is a Repository of Great Jewels". Religion East and West (5). note 2. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2017.
- ^ Migot 1954, tr. 510-1.
- ^ Mair, Victor H. (2014). "Transformation as Imagination". Trong Kieschnick, John; Shahar, Meir (biên tập). India in the Chinese imagination (ấn bản thứ 1). Philadelphia: University of Pennsylvania Press. tr. 221 n.16. ISBN 978-0-8122-0892-4.
- ^ Migot 1954, tr. 407, 416-7.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 287, 456.
- ^ Shaw 2013, tr. 452.
- ^ Migot 1954, tr. 417-9, 477, 535.
- ^ Karaluvinna 2002, tr. 448.
- ^ Migot 1954, tr. 433, 475.
- ^ Migot 1954, tr. 478.
- ^ a b Karaluvinna 2002, tr. 450.
- ^ Karaluvinna 2002, tr. 451.
- ^ a b c d e f Rhys Davids 1908, tr. 769.
- ^ Karaluvinna 2002, tr. 250.
- ^ Schumann 2004, tr. 232.
- ^ Brekke, Torkel (1997). "The Early Saṃgha and the Laity". Journal of the International Association of Buddhist Studies. 20 (2): 28. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2017.
- ^ Schumann 2004, tr. 233.
- ^ Bareau 1991, tr. 93.
- ^ a b c d e Mrozik 2004, tr. 487.
- ^ Bareau 1991, tr. 111.
- ^ Bareau 1991, tr. 92, 103-104, 124.
- ^ Therī, Tathālokā. "The Amazing Transformations of Arahant Theri Uppalavanna" (PDF). bhikkhuni.et. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.
- ^ a b Karaluvinna 2002, tr. 449.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 498.
- ^ Gifford 2003, tr. 74-5.
- ^ Gifford 2003, tr. 72, 77.
- ^ Gethin 2011, tr. 222.
- ^ Gethin 2011, tr. 226.
- ^ a b Gifford 2003, tr. 74.
- ^ Ladwig 2012, tr. 128.
- ^ Berezkin 2015, sec. 3.
- ^ Berezkin 2015, sec. 7.
- ^ Ladwig 2012, tr. 137.
- ^ a b c d Berezkin 2015, sec. 2.
- ^ a b Berezkin 2015, sec. 6.
- ^ a b Teiser 1996, tr. 6.
- ^ Irons 2007, tr. 54, 98.
- ^ Powers 2015, tr. 289.
- ^ Ladwig 2012, tr. 127.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 499, 1045.
- ^ Teiser 1996, tr. 7.
- ^ a b Seidel 1989, tr. 295.
- ^ Ladwig, Patrice (ngày 31 tháng 5 năm 2012). "Visitors from hell: transformative hospitality to ghosts in a Lao Buddhist festival". Journal of the Royal Anthropological Institute. 18 (S1): S92 – S93. doi:10.1111/j.1467-9655.2012.01765.x. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2017.
- ^ a b Gifford 2003, tr. 76.
- ^ Mikles, Natasha L. (tháng 12 năm 2016). "Buddhicizing the Warrior-King Gesar in the dMyal gling rDzogs pa Chen po" (PDF). Revue d'Études Tibétaines (37): 236. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2017.
- ^ Karlsson, Klemens (tháng 5 năm 2009). "Tai Khun Buddhism And Ethnic-Religious Identity" (PDF). Contemporary Buddhism. 10 (1): 75–83. doi:10.1080/14639940902968939. S2CID 143896245.
- ^ Brown, Frank Burch, biên tập (2013). The Oxford Handbook of Religion and the Arts. Oxford Handbooks. Oxford University Press. tr. 371. ISBN 978-0-19-972103-0.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 932-3.
- ^ Revire 2017, tr. 4.
- ^ Huntington 1985, tr. 48-49.
- ^ Revire 2017, tr. 8.
- ^ a b Hecker, Hellmuth (1979). "Mahamoggallana". Buddhist Publication Society. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2006.
- ^ a b Schumann 2004, tr. 244.
- ^ McDermott 1976, tr. 77.
- ^ Keown 1996, tr. 342.
- ^ a b McDermott 1976, tr. 78.
- ^ Migot 1954, tr. 476.
- ^ a b Weragoda Sarada Maha Thero (1994). Parents and Children: Key to Happiness. Singapore Buddhist Meditation Centre. ISBN 981-00-6253-2.
- ^ Hoffman, L.; Patz-Clark, D.; Looney, D.; Knight, S. K. (2007). Historical perspectives and contemporary needs in the psychology of evil: Psychological and interdisciplinary perspectives. 115th Annual Meeting of the American Psychological Association. San Francisco, California. tr. 7. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2017.
- ^ Keown 1996, tr. 341.
- ^ Kong, C.F. (2006). Saccakiriyā: The Belief in the Power of True Speech in Theravāda Buddhist Tradition (Luận văn). School of Oriental and African Studies, University of London. tr. 211 n.2. uk.bl.ethos.428120.[liên kết hỏng]
- ^ Gombrich, Richard (1975). "Buddhist karma and social control" (PDF). Comparative Studies in Society and History. 17 (2): 215 n.7. doi:10.1017/S0010417500007751. ISSN 1475-2999. S2CID 145404006. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2017.
- ^ Gifford 2003, tr. 82.
- ^ Migot 1954, tr. 475.
- ^ a b c d Harvey 2013, tr. 262-3.
- ^ Mrozik 2004, tr. 488.
- ^ Irons 2007, tr. 335.
- ^ Harvey 2013, tr. 263.
- ^ Ditzler, Pearce & Wheeler 2015, tr. 13.
- ^ a b c Wu, Fatima (2004). "China: Popular Religion". Trong Salamone, Frank A. (biên tập). Encyclopedia of religious rites, rituals, and festivals . New York: Routledge. tr. 82. ISBN 0-415-94180-6.
- ^ Harvey 2013, tr. 262.
- ^ Irons 2007, tr. 54.
- ^ Williams, Paul; Ladwig, Patrice (2012). Buddhist funeral cultures of Southeast Asia and China. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 8. ISBN 978-1-107-00388-0.
- ^ Ashikaga 1951, tr. 71 n.2.
- ^ a b Powers 2015, tr. 290.
- ^ Teiser 1996, tr. 7, 20-1.
- ^ Ashikaga 1951, tr. 72.
- ^ Xing, Guang (2010). "Popularization of Stories and Parables on Filial Piety in China". Journal of Buddhist Studies (8): 131. ISSN 1391-8443. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2015.
- ^ Seidel 1989, tr. 268.
- ^ Ditzler, Pearce & Wheeler 2015, tr. 5.
- ^ Ditzler, Pearce & Wheeler 2015, tr. 6, 13.
- ^ Strong, John (1983). "Filial piety and Buddhism: The Indian antecedents to a "Chinese" problem" (PDF). Trong Slater, P.; Wiebe, D. (biên tập). Traditions in contact and change: selected proceedings of the XIVth Congress of the International Association for the History of Religions. Quyển 14. Wilfrid Laurier University Press. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2017.
- ^ Dias, Keshala (ngày 10 tháng 2 năm 2017). "Today is Navam Full Moon Poya Day". News First. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
- ^ "The Majestic Navam Perahera of Gangaramaya". Daily Mirror. ngày 22 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
- ^ Buswell & Lopez 2013.
- ^ Prebish, Charles S. (2010). Buddhism: A Modern Perspective. Penn State Press. tr. 284. ISBN 978-0-271-03803-2.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 7, 252.
- ^ a b Migot 1954, tr. 520.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 535.
- ^ Gifford 2003, tr. 78.
- ^ a b Strong, John S. (1994). The Legend and Cult of Upagupta: Sanskrit Buddhism in North India and Southeast Asia. Motilal Banarsidass Publishers. tr. 143. ISBN 978-81-208-1154-6.
- ^ Migot 1954, tr. 509, 514, 517.
- ^ Huber, E. (1906). "Etudes de littérature bouddhique" [Studies in Buddhist literature]. Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient (bằng tiếng Pháp). 6: 27–8. doi:10.3406/befeo.1906.2077.
- ^ Thomas 1953, tr. 68-9.
- ^ Teiser 2008, tr. 141.
- ^ Teiser 2008, tr. 145-6.
- ^ Irons 2007, tr. 158.
- ^ Buswell & Lopez 2013, tr. 245.
- ^ Cunningham, Alexander (1854). The Bhilsa topes, or, Buddhist monuments of central India (PDF). London: Smith, Elder & Co. tr. 297.
- ^ Brekke 2007, tr. 275.
- ^ Bareau, André (1962). "La construction et le culte des stūpa d'après les Vinayapitaka" [The construction and cult of the stūpa after the Vinayapitaka]. Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient (bằng tiếng Pháp). 50 (2): 264. doi:10.3406/befeo.1962.1534.
- ^ Higham, Charles F.W. (2004). Encyclopedia of ancient Asian civilizations. New York: Facts On File. tr. 215. ISBN 0-8160-4640-9.
- ^ Daulton 1999, tr. 104.
- ^ a b Migot 1954, tr. 416.
- ^ Brekke 2007, tr. 274.
- ^ Daulton 1999, tr. 107.
- ^ Daulton 1999, tr. 108.
- ^ Brekke 2007, tr. 273-78.
- ^ Brekke 2007, tr. 78.
- ^ Finot, Louis (1917). "Annual Report of the Archaeological Survey of India, Part I, 1915-1916; Archaeological Survey of India, Annual Report, 1913-1914". Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient. 17: 12.
- ^ Brekke 2007, tr. 277-95.
- ^ a b Daulton 1999, tr. 108-13.
- ^ Miller, Roy Andrew (tháng 2 năm 1954). "Book review of The Visit of the Sacred Relics of the Buddha and the Two Chief Disciples to Tibet at the Invitation of the Government". The Far Eastern Quarterly. 13 (2). The Government of Tibet: 223–225. doi:10.2307/2942082. JSTOR 2942082.
- ^ Brekke 2007, tr. 295-7, 301.
- ^ Daulton 1999, tr. 115-20.
- ^ Santiago, Melanie (ngày 3 tháng 5 năm 2015). "Sacred Relics of Lord Buddha brought to Sirasa Vesak Zone; thousands gather to pay homage". News First. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
- ^ Akkara, Anto (ngày 15 tháng 1 năm 2015). "Buddhist center breaks tradition, shows pope revered relic". Catholic Philly. Catholic News Service. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
- ^ Santosh, Neeraj (ngày 27 tháng 11 năm 2016). "Relics of the Buddha's chief disciples exhibited in Sanchi". Hindustan Times. Bhopal. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
- ^ "Thai princess visits Sanchi". Hindustan Times. Bhopal. ngày 22 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2017.
Thư mục tham khảo
- Ashikaga, Ensho (ngày 1 tháng 1 năm 1951), "Notes on Urabon ("Yü Lan P'ên, Ullambana")", Journal of the American Oriental Society, 71 (1): 71–75, doi:10.2307/595226, JSTOR 595226
- Bareau, André (1991), "Les agissements de Devadatta selon les chapitres relatifs au schisme dans les divers Vinayapitaka" [Devadatta's deeds according to the chapters relating the schism in the various Vinayapitakas], Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient (bằng tiếng Pháp), 78: 87–132, doi:10.3406/befeo.1991.1769
- Berezkin, Rostislav (ngày 21 tháng 2 năm 2015), "Pictorial Versions of the Mulian Story in East Asia (Tenth-Seventeenth Centuries): On the Connections of Religious Painting and Storytelling", Fudan Journal of the Humanities and Social Sciences, 8 (1): 95–120, doi:10.1007/s40647-015-0060-4, S2CID 146215342
- Brekke, Torkel (ngày 1 tháng 9 năm 2007), "Bones of Contention: Buddhist Relics, Nationalism and the Politics of Archaeology", Numen, 54 (3): 270–303, doi:10.1163/156852707X211564
- Buswell, Robert E. Jr.; Lopez, Donald S. Jr. (2013), Princeton Dictionary of Buddhism. (PDF), Princeton, NJ: Princeton University Press, ISBN 978-0-691-15786-3
- Carus, Paul (1905), "Ashvajit's Stanza and Its Significance", Open Court, 3 (6)
- Daulton, J. (1999), "Sariputta and Moggallana in the Golden Land: The Relics of the Buddha's Chief Disciples at the Kaba Aye Pagoda" (PDF), Journal of Burma Studies, 4 (1): 101–128, doi:10.1353/jbs.1999.0002, S2CID 161183926, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2019, truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2019
- Ditzler, E.; Pearce, S.; Wheeler, C. (tháng 5 năm 2015), The Fluidity and Adaptability of Buddhism: A Case Study of Maudgalyāyana and Chinese Buddhist identity
- Gethin, Rupert (2011), "Tales of miraculous teachings: miracles in early Indian Buddhism", trong Twelftree, Graham H. (biên tập), The Cambridge companion to miracles, Cambridge Companions to Religions, Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-89986-4
- Gifford, Julie (2003), "The Insight Guide to Hell" (PDF), trong Holt, John Clifford; Kinnard, Jacob N.; Walters, Jonathan S. (biên tập), Constituting communities Theravada Buddhism and the religious cultures of South and Southeast Asia, Albany: State University of New York Press, ISBN 0-7914-5691-9, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2020, truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2017
- Harvey, Peter (2013), An introduction to Buddhism: teachings, history and practices (PDF) , New York: Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-85942-4
- Huntington, J.C. (1985). "The Origin of the Buddha Image: Early Image Traditions and the Concept of Buddhadarsanapunya". Trong Narain, A. K. (biên tập). Studies in Buddhist Art of South Asia (PDF). Delhi: Kanak Publications. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2017.
- Irons, Edward (2007), Encyclopedia of Buddhism (PDF), New York: Facts on File, ISBN 978-0-8160-5459-6, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2017, truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2017
- Karaluvinna, M. (2002), "Mahā-Moggallāna", trong Malalasekera, G. P.; Weeraratne, W. G. (biên tập), Encyclopaedia of Buddhism, quyển 6, Government of Sri Lanka[liên kết hỏng]
- Keown, D. (1996), "Karma, character, and consequentialism", The Journal of Religious Ethics (24)
- Ladwig, Patrice (2012), "Feeding the dead: ghosts, materiality and merit", trong Williams, Paul; Ladwig, Patrice (biên tập), Buddhist funeral cultures of Southeast Asia and China, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-1-107-00388-0
- Malalasekera, G.P. (1937), Dictionary of Pāli proper names, quyển 2 (ấn bản thứ 1), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, ISBN 81-208-3022-9
- McDermott, James P. (ngày 1 tháng 1 năm 1976), "Is There Group Karma in Theravāda Buddhism?", Numen, 23 (1): 67–80, doi:10.2307/3269557, JSTOR 3269557
- Migot, André (1954), "Un grand disciple du Buddha: Sāriputra. Son rôle dans l'histoire du bouddhisme et dans le développement de l'Abhidharma" [A great disciple of the Buddha: Sāriputra, his role in Buddhist history and in the development of Abhidharma] (PDF), Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient (bằng tiếng Pháp), 46 (2): 405–554, doi:10.3406/befeo.1954.5607[liên kết hỏng]
- Mrozik, Suzanne (2004), "Mahāmaudgalyāyana" (PDF), trong Buswell, Robert E. (biên tập), Encyclopedia of Buddhism, New York [u.a.]: Macmillan Reference USA, Thomson Gale, tr. 487–8, ISBN 0-02-865720-9, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2015
- Neelis, Jason (2011). Early Buddhist transmission and trade networks: mobility and exchange within and beyond the northwestern borderlands of South Asia (PDF). Dynamics in the History of Religions. Quyển 2. Leiden: Brill Publishers. ISBN 978-90-04-18159-5. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2017.
- Powers, John (2015), The Buddhist World, Routledge Worlds, Routledge, ISBN 978-1-317-42017-0
- Revire, Nicolas (tháng 3 năm 2017). "Please Be Seated": Faxian's Account and Related Legends Concerning the First Buddha Image. From Xianghuan to Ceylon: The Life and Legacy of the Chinese Buddhist Monk Faxian (337-422). Changzhi.[liên kết hỏng]
- Rhys Davids, T.W. (1908), "Moggallāna", trong Hastings, James; Selbie, John Alexander; Gray, Louis H. (biên tập), Encyclopaedia of religion and ethics, quyển 8, Edinburgh: T. & T. Clark
- Schumann, H.W. (2004) [1982], Der Historische Buddha [The historical Buddha: the times, life, and teachings of the founder of Buddhism] (bằng tiếng Đức), Walshe, M. O' C. biên dịch, Delhi: Motilal Banarsidass, ISBN 81-208-1817-2
- Seidel, Anna (1989), "Chronicle of Taoist Studies in the West 1950-1990", Cahiers d'Extrême-Asie (bằng tiếng Anh), 5: 223–347, doi:10.3406/asie.1989.950
- Shaw, Sarah (2013), "Character, Disposition, and the Qualities of the Arahats as a Means of Communicating Buddhist Philosophy in the Suttas" (PDF), trong Emmanuel, Steven M. (biên tập), A companion to Buddhist philosophy , Chichester, West Sussex: Wiley-Blackwell, ISBN 978-0-470-65877-2, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2015
- Skilling, Peter (2003), "Traces of the Dharma", Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient, 90 (1): 273–287, doi:10.3406/befeo.2003.3615
- Teiser, Stephen F. (1996), The ghost festival in medieval China (ấn bản thứ 2), Princeton, N.J.: Princeton University Press, ISBN 0-691-02677-7
- Teiser, Stephen F. (2008), "The Wheel of Rebirth in Buddhist Temples", Arts Asiatiques (bằng tiếng Anh), 63: 139–153, doi:10.3406/arasi.2008.1666
- Thomas, Edward J. (1908). "Saints and martyrs (Buddhist)" (PDF). Trong Hastings, James; Selbie, John Alexander; Gray, Louis H. (biên tập). Encyclopaedia of religion and ethics. Quyển 11. Edinburgh: T. & T. Clark. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2013.
- Thomas, Edward J. (1953), The History of Buddhist Thought (PDF), History of Civilization (ấn bản thứ 2), London: Routledge and Kegan Paul
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên | pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán |