True Blue là album phòng thu thứ ba của ca sĩ người Mỹ Madonna, phát hành ngày 30 tháng 6 năm 1986 bởi Sire Records và Warner Bros. Records. Đầu năm 1985, Madonna công khai mối quan hệ tình cảm với nam diễn viên Sean Penn, và cả hai kết hôn sáu tháng sau đó vào đúng dịp sinh nhật lần thứ 27 của cô. Ngoài ra, nữ ca sĩ gặp gỡ nhà sản xuất Patrick Leonard trong khoảng thời gian thực hiện chuyến lưu diễn The Virgin Tour, và hình thành mối quan hệ cộng tác trong âm nhạc với ông. Những bài hát đầu tiên họ cùng nhau sáng tác là "Love Makes the World Go Round" và bản ballad "Live to Tell", sau đó được đưa vào bộ phim năm 1986 do Penn thủ vai chính At Close Range. Đến cuối năm 1985, Madonna và Leonard bắt đầu thực hiện đĩa nhạc thứ ba của cô, đồng thời nữ ca sĩ cũng tiếp tục hợp tác với bạn trai cũ Stephen Bray, người từng tham gia sản xuất cho album trước Like a Virgin (1984). Ngoài ra, True Blue cũng đánh dấu lần đầu tiên Madonna đồng sáng tác và đồng sản xuất một dự án trong sự nghiệp, với nguồn cảm hứng xuất phát từ tình yêu của nữ ca sĩ với Penn, và là người cô muốn dành trọn tác phẩm để tri ân.
True Blue là một bản thu âm dance-pop kết hợp với những âm hưởng từ âm nhạc Motown và nhóm nhạc nữ thập niên 1960, post-disco và latin pop, trong đó Madonna lần đầu sử dụng một số nhạc cụ cổ điển nhằm thu hút đối tượng khán giả trưởng thành vốn từng hoài nghi về âm nhạc của cô. Nội dung ca từ của đĩa nhạc đề cập đến nhiều chủ đề như tình yêu, tự do và những vấn nạn xã hội lúc bấy giờ như phá thai. Sau khi phát hành, True Blue nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao chất giọng và sự phát triển trong âm nhạc của nữ ca sĩ. Album cũng gặt hái những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại khi thống trị các bảng xếp hạng tại hơn 28 quốc gia, bao gồm Úc, Canada, Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Nhật Bản, New Zealand, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, cũng như lọt vào top 5 ở tất cả những thị trường còn lại. Đĩa nhạc đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 trong năm tuần liên tiếp, đánh dấu album quán quân thứ hai của Madonna tại Hoa Kỳ và được chứng nhận bảy đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) với lượng đĩa xuất xưởng đạt bảy triệu bản.
Năm đĩa đơn đã được phát hành từ True Blue và tất cả đều vươn đến top 5 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại Hoa Kỳ, bao gồm ba đĩa đơn quán quân "Live to Tell", "Papa Don't Preach" và "Open Your Heart". Ngoài ra, những đĩa đơn trích từ đĩa nhạc cũng gặt hái thành công lớn trên thị trường quốc tế, trong đó "Papa Don't Preach" và "La Isla Bonita" đạt vị trí số một tại nhiều quốc gia. Để quảng bá album, nữ ca sĩ thực hiện chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên Who's That Girl World Tour (1987) với 38 đêm diễn khắp Châu Á, Bắc Mỹ và Châu Âu. True Blue được ghi nhận là đĩa nhạc giúp khẳng định vị thế của Madonna như là nghệ sĩ nữ thành công nhất thập niên 1980, đồng thời sánh ngang với những nghệ sĩ nam đương thời như Michael Jackson và Prince. Ngoài ra, cô cũng trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên được trao giải thưởng Thành tựu Video của giải Video âm nhạc của MTV, ghi nhận những tác động của Madonna đối với sự phát triển của MTV. Tính đến nay, True Blue đã bán được hơn 25 triệu bản trên toàn thế giới, trở thành album bán chạy nhất năm 1986, album bán chạy nhất thập niên 1980 của nghệ sĩ nữ và là một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.
^"Ísland (LP-plötur)" (bằng tiếng Iceland). Timarit.is. ngày 8 tháng 8 năm 1986. tr. 43. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"Jahreshitparade 1986" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^Pickard, Christopher (ngày 6 tháng 2 năm 1988). "Brazil record sales hold ground"(PDF). Cash Box. Quyển 51 số 31. tr. 26. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
^"Top 100 albums of '86". RPM. Library and Archives Canada. ngày 27 tháng 12 năm 1986. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"Jaaroverzichten 1986" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
^"Hot 100 of the year 1986"(PDF). Music & Media. Quyển 3 số 51/52. ngày 27 tháng 12 năm 1986. tr. 35. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
^"Les Albums (CD) de 1986 par InfoDisc" (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique (SNEP). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^White, Jackc (ngày 9 tháng 10 năm 2020). "All the Number 1 albums of the 1980s". Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"Top Pop Albums"(PDF). Billboard. Quyển 98 số 52. ngày 27 tháng 12 năm 1986. tr. Y-19. ISSN0006-2510. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
^"Jahreshitparade 1987" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"Top 100 albums of '87". RPM. Library and Archives Canada. ngày 26 tháng 12 năm 1987. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"Jaaroverzichten - LP 1987" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
^"European Hot 100 Albums"(PDF). Music & Media. Quyển 4 số 51/52. ngày 26 tháng 12 năm 1987. tr. 38. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
Garcia, Sérgio (ngày 31 tháng 10 năm 1993). "No banco com Madonna". Jornal do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2024.
"Vida de roqueira". Veja (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazil: Editora Abril. ngày 12 tháng 4 năm 1989. tr. 106–107. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2024.
^"אלבומים ומכירות בארץ". LaIsha (bằng tiếng Do Thái). ngày 13 tháng 8 năm 2001. tr. 56. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.
^"Latest Gold / Platinum Albums" (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 17 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.
^"Ekonomi Araştırma". Milliyet (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). ngày 17 tháng 9 năm 1987. tr. 5. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.(cần đăng ký mua)
^Bakker, Machgiel (ngày 18 tháng 7 năm 1987). "Madonna heads for 15th triumph"(PDF). Music & Media. Quyển 4 số 28. tr. 11. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.