![]() | |||
Biệt danh | Seleção (Đội tuyển) | ||
---|---|---|---|
Hiệp hội | Liên đoàn bóng đá Brasil (Confederação Brasileira de Futebol) | ||
Huấn luyện viên trưởng | Dorival Júnior | ||
Đội trưởng | Casemiro | ||
Thi đấu nhiều nhất | Cafu (142) | ||
Ghi bàn nhiều nhất | Neymar (79) | ||
Mã FIFA | BRA | ||
| |||
Hạng FIFA | |||
Hiện tại | 5 ![]() | ||
Cao nhất | 1 (9.1993 31.3.2022-5.4.2023[2]) | ||
Thấp nhất | 22 (6.2013) | ||
Hạng Elo | |||
Hiện tại | 1 ![]() | ||
Cao nhất | 1 (15.6.1958) | ||
Thấp nhất | 18 (11.2001) | ||
Trận quốc tế đầu tiên | |||
![]() ![]() (Buenos Aires, Argentina; 20 tháng 9 năm 1914)[4] | |||
Trận thắng đậm nhất | |||
![]() ![]() (México; 17 tháng 10 năm 1975)[5] ![]() ![]() (São Paulo, Brazil; 10 tháng 4 năm 1949)[6] ![]() ![]() (Lima, Peru; 24 tháng 3 năm 1957) | |||
Trận thua đậm nhất | |||
![]() ![]() (Viña del Mar, Chile; 18 tháng 9 năm 1920) ![]() ![]() (Belo Horizonte, Brasil; 8 tháng 7 năm 2014) | |||
Giải thế giới | |||
Sồ lần tham dự | 22 (Lần đầu vào năm 1930) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch: 1958, 1962, 1970, 1994, 2002 | ||
Copa América | |||
Sồ lần tham dự | 36 (Lần đầu vào năm 1916) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch: 1919, 1922, 1949, 1989, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019 | ||
Cúp Liên đoàn các châu lục | |||
Sồ lần tham dự | 7 (Lần đầu vào năm 1997) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch: 1997, 2005, 2009, 2013 | ||
Thành tích huy chương Thế vận hội | ||
---|---|---|
Bóng đá nam | ||
![]() |
Los Angeles 1984 | Đồng đội |
![]() |
Seoul 1988 | Đồng đội |
![]() |
Atlanta 1996 | Đồng đội |
![]() |
Bắc Kinh 2008 | Đồng đội |
![]() |
Luân Đôn 2012 | Đồng đội |
![]() |
Brasil 2016 | Đồng đội |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Seleção Brasileira de Futebol, SBF) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil tham dự đấu trường quốc tế. Brasil là thành viên của FIFA từ năm 1923 và là thành viên của CONMEBOL từ năm 1916.[7]
Trận đấu quốc tế đầu tiên của Brasil là trận gặp Argentina năm 1914. Brasil là đội tuyển bóng đá thành công nhất trên thế giới hiện nay, khi đang là đội tuyển quốc gia giàu thành tích nhất tại FIFA World Cup với 5 lần vô địch ở các năm 1958, 1962, 1970, 1994 và 2002. Seleção cũng có thành tích tổng thể tốt nhất tại sân chơi World Cup, với 76 trận thắng sau 114 trận, hiệu số bàn thắng bại +129, đạt 247 điểm với chỉ 19 trận thua.[8][9] Brasil là đội tuyển duy nhất trên thế giới đã tham dự tất cả các kỳ World Cup được tổ chức cho đến nay và thậm chí chưa bao giờ phải tranh vé vớt. Đây cũng là đội tuyển duy nhất đã vô địch World Cup ở bốn châu lục khác nhau, bao gồm châu Âu (1958), Nam Mỹ (1962), Bắc Mỹ (1970 và 1994), và châu Á (2002).
Brasil cũng là đội tuyển thành công nhất ở Cúp Liên đoàn các châu lục với 4 lần đăng quang các năm 1997, 2005, 2009 và 2013. Họ cũng đã giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 2016,[10] qua đó trở thành một trong hai quốc gia duy nhất, cùng với Pháp, vô địch tất cả các giải đấu FIFA dành 11 cầu thủ nam ở mọi lứa tuổi.[10][11][12][13][14] Có một câu nói vui phổ biến trong bóng đá là "Người Anh sáng tạo ra môn bóng đá, và người Brasil đã hoàn thiện nó".[15] Đội tuyển Brasil trong giai đoạn hoàng kim nhất thường được coi là đội bóng chơi tốt nhất hành tinh và luôn là ứng cử viên vô địch hàng đầu ở các vòng chung kết World Cup.
Trên bảng xếp hạng, đội tuyển Brasil có hệ số Elo trung bình cao nhất trong lịch sử bóng đá, và hệ số Elo cao nhất mọi thời đại đạt được vào năm 1962.[16] Trên bảng xếp hạng Đội tuyển hay nhất của năm do FIFA tổ chức, Brasil nắm giữ kỷ lục với 13 lần đứng đầu bảng.[17] Rất nhiều nhà bình luận, chuyên gia và cựu cầu thủ đánh giá đội tuyển Brasil năm 1970 là đội bóng hay nhất mọi thời đại.[18][19][20][21][22] Các đội Brasil khác cũng được đánh giá cao và thường xuyên được nhắc đến trong danh sách những đội bóng hay nhất mọi thời đại. Điển hình như đội Brasil giai đoạn 1958-1962 và đội Brasil giai đoạn 1994-2002. Ngoài ra, đội Brasil năm 1982 cũng được nhắc đến với lối chơi đẹp mắt và đầy mê hoặc.[23][24][25][26] Năm 1996, đội tuyển quốc gia Brasil đã tạo ra một kỳ tích đáng kinh ngạc khi trải qua 35 trận liên tiếp bất bại. Thành tích này đã giúp họ trở thành đội tuyển quốc gia có chuỗi trận bất bại dài nhất thế giới trong 25 năm.[27][28][29]
Biệt danh
Do tầm ảnh hưởng cao của mình, đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil được biết đến với rất nhiều biệt danh. Một vài trong số đó là:
Tiếng Bồ Đào Nha | Tiếng Việt |
---|---|
Seleção | Đội tuyển |
Seleção Brasileira | Đội tuyển Brasil |
Canarinho | Tiểu kim tước |
Verde-Amarela | Vàng - Xanh |
Esquadrão de Ouro | Phi đội Vàng |
Pentacampeões | Nhà vô địch năm kỳ |
Brasil là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kì World Cup và là quốc gia đầu tiên vô địch 5 lần (1958, 1962, 1970, 1994 và 2002). Với kết quả đó, người Brasil thường gọi đội tuyển quốc gia của họ là "Pentacampeão", có nghĩa là "5 lần vô địch" trong tiếng Bồ Đào Nha. Khi tính thêm 2 lần hạng nhì (1950 và 1998) và 2 lần hạng ba (1938 và 1978) tại World Cup, cũng như nhiều thành công khác, Brasil được xem là đội tuyển thành công nhất thế giới bóng đá.
Lịch sử
Những năm đầu
Đội tuyển quốc gia của Brasil được thành lập vào năm 1914 và đã đấu trận đầu tiên là trận giao hữu với Exeter City F.C. ngay trong năm đó, thắng 2–0. Không như những chiến thắng trong tương lai, các lần thi đấu ban đầu của đội tuyển không có gì ngoạn mục, một phần vì các hiềm khích bên trong về vấn đề dùng các cầu thủ nhà nghề làm cho Liên đoàn bóng đá Brasil không thể có một đội tuyển hoàn hảo.
Đặc biệt nhất là sự bất đồng ý kiến giữa hai hiệp hội bóng đá của bang São Paulo và bang Rio de Janeiro và hậu quả là đội tuyển bao gồm các cầu thủ của 2 hiệp hội cãi cọ đó. Tại cả hai World Cup 1930 và World Cup 1934, Brasil bị loại ngay tại Vòng 1. Nhưng tại World Cup 1938 thì đã có hiện tượng mới cho tương lai, Brasil đã chiếm hạng ba thế giới với Leônidas da Silva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn thắng trong một trận của giải.
Brasil đăng cai World Cup 1950, lần giải đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giải này đặc biệt vì không có trận chung kết, thay vào đó là 4 đội đứng đầu vòng bảng vào Vòng chung kết và thi đấu vòng tròn một lượt. Tuy nhiên trận giữa Brasil và Uruguay đã được xem như "trận chung kết" của giải. Brasil trước đó đã thể hiện phong độ hủy diệt, đè bẹp Thụy Điển 7-1 và Tây Ban Nha 6-1 và được nhiều người đánh giá là đã cầm chắc chức vô địch trong tay. Trận đấu giữa Brasil và Uruguay ra tại sân vận động Maracanã tại Rio de Janeiro trước 199.854 khán giả và Brasil chỉ cần hoà Uruguay để đoạt chức vô địch. Tuy vậy Brasil đã để thua 1-2 mặc dù đang hòa 1-1. Kết quả này được coi là một trong những bất ngờ lớn nhất trong lịch sử bóng đá. Trận này được dân Nam Mỹ đặt tên là trận "Maracanazo (Maracanãzo) (Thảm họa Maracanã)". Sau khi trận đấu kết thúc, một bầu không khí im lặng và đau buồn bao trùm lấy sân Maracanã [30][31]. Màu áo, quần và tất trắng nguyên vẹn từ đầu đến chân mà đội tuyển Brasil đã mặc trong ngày hôm đó đã bị bỏ vĩnh viễn và thay bằng trang phục thi đấu áo vàng quần xanh dương (thỉnh thoảng là quần trắng) và tất trắng như ngày nay.
Chuẩn bị cho World Cup 1954 tại Thụy Sĩ, đội tuyển của Brasil được "thay máu" hoàn toàn, để xóa nhòa trận thua nhục nhã "Maracanã" 4 năm về trước, nhưng vẫn còn các cầu thủ tốt như Nilton Santos, Djalma Santos và Didi. Tại trận tứ kết, Brasil đã bị thua Hungary 2-4. Trận đấu đã bị chỉ trích là một trong những trận "bẩn thỉu" nhất trong lịch sử bóng đá và đã được đặt tên là "Chiến trận Berne" (theo như một số CĐV Brasil).
Kỉ nguyên Vàng với huyền thoại Pelé (1958–70)
Đến với World Cup 1958, Brasil đã nằm chung bảng với Anh, Liên Xô và Áo. Họ đã đánh bại Áo 3–0 trong trận đầu tiên, sau đó hòa 0-0 với đội tuyển Anh. Trước trận đấu với Liên Xô, HLV Vicente Feola đã thực hiện ba sự thay đổi rất quan trọng để Brasil đánh bại Liên Xô: Zito, Garrincha và Pelé. Họ thắng trận 2–0. Pelé đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận tứ kết gặp xứ Wales, và họ đánh bại Pháp 5-2 trong trận bán kết với cú hat-trick của thiên tài 17 tuổi Pelé. Brasil sau đó đánh bại chủ nhà Thụy Điển 5–2 trong trận chung kết để giành chức vô địch World Cup đầu tiên của họ và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup bên ngoài lục địa của mình.
Tại World Cup 1962, Brasil đã giành được chức vô địch World Cup lần thứ hai với Garrincha là cầu thủ ngôi sao, trong khi Pelé, bị chấn thương trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Tiệp Khắc và không thể chơi phần còn lại của giải đấu.
Tại World Cup 1966, Brasil đã có màn trình diễn siêu tệ nhất của họ tại một kỳ World Cup. Giải đấu năm 1966 được ghi nhớ vì các đội bóng đã thi triển lối chơi vô cùng bạo lực như kéo áo, đẩy người, xoạc sau, đánh cùi chỏ, dùng tay để chơi bóng, v..v., và Pelé là một trong những cầu thủ bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi ông bị chấn thương trong trận đấu với Bồ Đào Nha. Brasil bị loại ngay từ vòng bảng, trở thành nhà đương kim vô địch World Cup thứ hai bị loại sau vòng bảng World Cup. Sau khi giải đấu kết thúc, Pelé tuyên bố rằng ông không muốn thi đấu tại World Cup thêm một lần nữa, tuy nhiên, ông đã lại trở lại vào năm 1970.
Brasil đã giành cúp thế giới lần thứ ba tại World Cup 1970 tại Mexico. Đội tuyển Brasil năm đó được đánh giá là đội bóng xuất sắc nhất trong lịch sử với một dàn sao gồm Pelé, đội trưởng Carlos Alberto Torres, Jairzinho, Tostão, Gérson và Rivelino, mặc dù Garrincha đã giải nghệ trước đó, nhưng đội hình này vẫn được xem là mạnh nhất thế giới khi đó. Họ đã thắng cả sáu trận của họ tại giải đấu này: 4-1 trước Tiệp Khắc, 1-0 trước Anh và 3-2 trước Rumani ở vòng bảng. Họ sau đó hạ Peru 4-2 ở tứ kết, 3-1 trước Uruguay ở bán kết và hủy diệt Italia 4-1 ở trận chung kết. Pelé kết thúc giải đấu với 4 bàn. Brasil giành chiếc cúp Jules Rimet lần thứ ba, trở thành quốc gia đầu tiên đạt được cột mốc lịch sử này. Điều này có nghĩa là họ đã được phép giữ chiếc cúp Jules Rimet vĩnh viễn.
Suy yếu (1974-90)
Với việc Pelé giải nghệ, Brasil đã không thể vượt qua Hà Lan tại bán kết World Cup 1974 diễn ra ở Tây Đức, và sau khi thua Ba Lan 0-1 ở trận tranh giải ba, họ kết thúc giải ở vị trí thứ tư. Brasil sau đó cũng bị loại tại vòng bảng thứ hai của World Cup 1978, dù không để thua trận đấu nào, do thua kém Argentina về hiệu số bàn thắng bại.
Tại World Cup 1982 tổ chức ở Tây Ban Nha, Brasil là được xem là ứng cử viên số 1 cho ngôi vô địch, và trên thực tế họ đã dễ dàng vượt qua vòng bảng, nhưng họ đã bị loại sau thất bại 2-3 ở sân Camp Nou (hay còn gọi là Nou Camp) trước Ý, trong một trận đấu được coi là kinh điển trong lịch sử World Cup. Đội tuyển Brasil năm 1982, với những hảo thủ như Sócrates, Zico, Falcão và Éder, được xem là đội bóng vĩ đại nhất chưa bao giờ giành được một chức vô địch World Cup.
Tại World Cup 1986 ở Mexico, Brasil vẫn là một đội bóng rất mạnh và kỷ luật hơn nhiều so với bốn năm trước đó, tuy vậy họ đã bị đội tuyển Pháp của Michel Platini loại ở tứ kết.
Năm 1989, Brasil giành danh hiệu Copa America đầu tiên kể từ năm 1949.
Tại World Cup 1990 ở Ý, Brasil đã được huấn luyện bởi Sebastião Lazaroni, đã từng là huấn luyện viên tại Copa América 1989. Với một chiến thuật nghiêng về phòng thủ, với nòng cốt là tiền vệ Dunga, đội bóng thiếu sáng tạo Brasil đã bị loại bởi Argentina của Diego Maradona ngay tại vòng 16 đội ở Turin với tỉ số 1-0.
Trở lại với đỉnh cao (1994-2002)

Brasil đã trải qua 24 năm mà không vô địch một kỳ World Cup nào. Họ cuối cùng cũng trở lại với đỉnh cao tại giải đấu năm 1994 ở Hoa Kỳ, nơi một đội tuyển Brasil đầy thực dụng của những Romario, Bebeto, Dunga, Cláudio Taffarel và Jorginho đã lập kỉ lục trở thành đội đầu tiên bốn lần vô địch thế giới. Họ đánh bại chủ nhà Hoa Kỳ 1-0 tại vòng 16 ở San Francisco, một chiến thắng 3-2 trước Hà Lan ở vòng tứ kết tại Dallas, và chiến thắng 1-0 trước Thụy Điển ở vòng bán kết tại Los Angeles. Họ vượt qua Italia của Roberto Baggio trên chấm phạt đền trong trận chung kết để lên ngôi vô địch.
Tại World Cup 1998, đội tuyển Brasil chơi ấn tượng và lọt vào đến chung kết. Tuy nhiên, lần này họ phải chấp nhận ngôi á quân sau khi để thua 0-3 trước chủ nhà Pháp trong trận đấu cuối cùng. Ngôi sao lớn nhất của họ trong giải đấu năm đó, Ronaldo bất ngờ lên cơn động kinh bí ẩn ngay trước khi trận đấu chung kết diễn ra, khiến anh bất ngờ chơi dưới phong độ, bất chấp trước đó đã ghi đến 4 bàn tại giải.[32]
4 năm sau, "Bộ Ba R" (Ronaldo, Rivaldo và Ronaldinho) đã đưa đội tuyển Brasil giành chức vô địch thế giới thứ năm tại World Cup 2002, giải đấu được tổ chức ở 2 quốc gia Hàn Quốc và Nhật Bản. Brasil giành vé vào vòng 16 với vị trí đầu bảng sau khi đánh bại cả ba đối thủ là Thổ Nhĩ Kỳ, Costa Rica và Trung Quốc. Sau đó Brasil đã đánh bại Bỉ 2–0 tại Kobe ở vòng 16 với hai bàn thắng của Rivaldo và Ronaldo. Đối đầu với đội tuyển Anh trong trận tứ kết ở Shizuoka, họ thắng 2–1, với bàn thắng ấn định tỉ số tới từ một cú đá phạt tuyệt đẹp của Ronaldinho. Trận bán kết tái đấu Thổ Nhĩ Kỳ ở Saitama; Brasil thắng 1–0 với Ronaldo là người ghi bàn duy nhất. Trong trận chung kết giữa Đức và Brasil ở Yokohama, Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2–0 của Brasil. Ronaldo cũng đã giành được danh hiệu Chiếc giày vàng khi là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu năm đó với 8 bàn thắng.
Brasil đã giành được chức vô địch Copa América năm 2004, chức vô địch lần thứ ba của họ trong bốn lần tham dự kể kể từ năm 1997[33]. Brasil cũng đã giành được danh hiệu FIFA Confederations Cup lần thứ hai vào năm 2005[34]. Huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira đã xây dựng đội hình của Brasil với sơ đồ 4-2-2-2. Với biệt danh là "Bộ tứ ma thuật", hàng tấn công của Brasil giai đoạn này được xây dựng xung quanh bốn ngôi sao: Ronaldo, Adriano, Kaká và Ronaldinho.
Hạn hán World Cup (2006-nay)
Tại World Cup 2006, Brasil khởi đầu khá nhàn nhã với hai chiến thắng trước Croatia (1-0) và Australia (2-0). Trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng gặp Nhật Bản, Brasil tiếp tục giành chiến thắng với tỷ số 4-1. Ronaldo ghi hai bàn trận này, qua đó cân bằng kỷ lục về số bàn thắng nhiều nhất ở các kỳ World Cup của Gerd Muller. Ở vòng 16 đội, Brasil dễ dàng đánh bại Ghana với tỷ số 3-0. Một bàn thắng của Ronaldo trong trận đấu này giúp anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong lịch sử World Cup. Tuy nhiên, Brasil đã bị loại ở tứ kết trước Pháp trong một trận đấu mà cầu thủ Zinedine Zidane của Pháp đã làm lu mờ hoàn toàn các ngôi sao của Selecao. Chung cuộc Brasil thua 0-1 bởi bàn thắng duy nhất của Thierry Henry.[35]
Carlos Dunga được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển Brasil sau thất bại ở World Cup 2006.[36] Dưới sự dẫn dắt của ông, đội hình Brasil bắt đầu có sự thay máu mạnh mẽ khi nhiều công thần như Ronaldo, Ronaldinho, Roberto Carlos và Adriano không còn được trọng dụng, thay vào đó là những nhân tố mới như Dani Alves, Maicon, Elano, Robinho hay Luis Fabiano. Brasil vẫn giành chức vô địch Cúp bóng đá Nam Mỹ 2007 sau chiến thắng 3-0 trước kình địch Argentina.[37] Hai năm sau khi giành chức vô địch Copa América 2007, Brasil tiếp tục khẳng định vị thế của mình là một trong những đội bóng mạnh nhất thế giới bằng cách giành chức vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục 2009.[38][39]
Tại World Cup 2010 diễn ra ở Nam Phi, Brasil khởi đầu đầy hứng khởi với hai chiến thắng liên tiếp trước Triều Tiên (2-1) và Bờ Biển Ngà (3-1). Trận đấu cuối cùng của vòng bảng gặp Bồ Đào Nha khép lại với tỷ số hòa 0-0. Ở vòng 16 đội, Brasil dễ dàng vượt qua Chile với tỷ số 3-0. Tuy nhiên, giấc mơ vàng của họ tan vỡ ở tứ kết khi gặp Hà Lan. Mặc dù chơi áp đảo trong hiệp một và ghi bàn dẫn trước, những sai lầm ở hệ thống phòng ngự trong hiệp hai và chiếc thẻ đỏ của Felipe Melo khiến Brasil thua chung cuộc 1-2 và lần thứ hai liên tiếp bị loại ở tứ kết World Cup.[40] Thất bại cay đắng này khiến Dunga bị sa thải.
Vào tháng 7 năm 2010, Mano Menezes được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới của Brasil.[41] Tuy nhiên, ngay tại Cúp bóng đá Nam Mỹ 2011, Brasil đã phải nhận thất bại cay đắng trước Paraguay ở tứ kết sau loạt sút luân lưu khi tất cả các cầu thủ của họ đều sút hỏng.[42] Vào ngày 4 tháng 7 năm 2012, Brasil đã tụt xuống vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng FIFA vì chỉ thi đấu các trận giao hữu, không có trận đấu chính thức nào kể từ khi giành quyền tham dự World Cup 2014 với tư cách là chủ nhà.
Sự trở lại của Luiz Felipe Scolari (2013-2014)
Tháng 11 năm 2012, HLV Mano Menezes bị sa thải và Luiz Felipe Scolari, người từng đưa Brasil vô địch World Cup 2002, được bổ nhiệm thay thế.[43][44]

Brasil bước vào Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 với tư cách là đương kim vô địch giải đấu, nhưng họ đang đứng thứ 22 trên bảng xếp hạng FIFA, thứ hạng thấp nhất từ trước đến nay.[45] Tuy nhiên, với sự tỏa sáng của ngôi sao mới Neymar, Selecao đã khẳng định sức mạnh tuyệt đối của mình và bảo vệ thành công chức vô địch, đánh bại Tây Ban Nha 3-0 trong trận chung kết.[46][47][48] Neymar được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu và nhận được Giải Quả bóng vàng và Giày đồng Adidas, còn Júlio César đã giành được Giải Găng tay vàng cho thủ môn xuất sắc nhất giải đấu.[49]
World Cup 2014
Tại trận khai mạc World Cup 2014, đội chủ nhà Brasil đã giành chiến thắng 3-1 trước Croatia, với cú đúp của Neymar và bàn thắng của Oscar. Đây là chiến thắng đầu tiên của Brasil trên sân nhà tại World Cup sau 64 năm.[50] Tiếp theo, Brasil hòa Mexico 0-0 trước khi giành vé vào vòng loại trực tiếp bằng chiến thắng 4-1 trước Cameroon. Neymar tiếp tục tỏa sáng với hai bàn thắng, còn Fred và Fernandinho ghi bàn còn lại.[51][52] Ở vòng 16, Brasil đối đầu với Chile. David Luiz mở tỉ số cho Brasil ở phút 18, nhưng Chile đã nhanh chóng gỡ hòa ở phút 29 nhờ bàn thắng của Alexis Sanchez. Hai đội giằng co đến hết 120 phút thi đấu chính thức và phải phân định thắng thua trên loạt sút luân lưu. Trên chấm phạt đền, Neymar, David Luiz và Marcelo thành công, còn thủ môn Júlio César cản phá thành công ba cú sút của Chile giúp Brasil giành chiến thắng chung cuộc 3-2.[53]

Brasil tiếp tục gặp khó khăn ở vòng tứ kết khi phải đối đầu với Colombia, một đối thủ cũng đến từ Nam Mỹ. Brasil đã giành chiến thắng 2-1 với những bàn thắng của David Luiz và Thiago Silva. Tuy nhiên, Neymar đã phải rời sân trong hiệp hai sau khi bị hậu vệ Colombia Juan Camilo Zúñiga va chạm với lưng. Neymar được đưa đến bệnh viện và được chẩn đoán bị gãy xương đốt sống, khiến anh không thể tham dự phần còn lại của giải đấu.[54] Trước đó, Neymar đã là nhân tố quan trọng giúp Brasil thi đấu thành công. Anh đã ghi 4 bàn thắng, có 1 kiến tạo và được bầu là cầu thủ hay nhất trận 2 lần. Brasil gặp thêm những rắc rối trước trận bán kết với Đức khi Thiago Silva bị treo giò một trận do nhận thẻ vàng thứ hai của giải đấu ở tứ kết.[55]
Ở trận bán kết World Cup 2014, Brasil đã phải hứng chịu thất bại nặng nề 1-7 trước Đức. Đây là trận thua tệ hại nhất của Brasil tại World Cup và là lần đầu tiên họ thua trên sân nhà trong một trận đấu chính thức kể từ năm 1975.[56][57][58] Sau thất bại này, Brasil tiếp tục thua 0-3 trước Hà Lan trong trận tranh hạng ba và khép lại một kỳ World Cup đáng quên.[59][60] Đội bóng Nam Mỹ kết thúc giải đấu với thành tích phòng ngự tệ nhất trong số 32 quốc gia tham dự, để thủng lưới 14 bàn.[61][62][63]
Sự trở Lại Của Dunga (2014–2016)

Ngày 22 tháng 7 năm 2014, Dunga được bổ nhiệm trở lại làm huấn luyện viên trưởng Brasil,[64][65][66] đánh dấu lần thứ hai ông nắm giữ vị trí này kể từ sau World Cup 2010.[67][68][69]
Brasil khởi đầu giải đấu với một màn lội ngược dòng ngoạn mục trước Peru, với bàn thắng phút chót của Douglas Costa.[70] Tuy nhiên, niềm vui của họ đã nhanh chóng bị dập tắt khi thất bại 0-1 trước Colombia ở trận tiếp theo, trận đấu mà Neymar bị truất quyền thi đấu vì ẩu đả với cầu thủ đối phương.[71] Brasil kết thúc vòng bảng với chiến thắng 2-1 trước Venezuela, qua đó giành quyền vào vòng loại trực tiếp.[72] Ở vòng tứ kết, Brasil đối đầu với Paraguay. Trận đấu diễn ra rất kịch tính và hai đội hòa nhau 1-1 sau 90 phút thi đấu chính thức. Brasil đã có cơ hội giành chiến thắng trong loạt sút luân lưu, nhưng họ đã thất bại với tỷ số 3-4.[73] Thất bại này là một cú sốc lớn đối với Brasil. Đây là lần đầu tiên trong gần 20 năm, đội bóng Nam Mỹ không thể tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục.[74]
Brasil khởi đầu Copa América Centenario 2016 với một trận hòa không bàn thắng trước Ecuador. Tuy nhiên, đội bóng Ecuador đã có cơ hội giành chiến thắng khi được hưởng một quả phạt đền ở hiệp hai, nhưng họ đã bỏ lỡ cơ hội này. Ở trận đấu tiếp theo, Brasil đã giành chiến thắng hủy diệt 7-1 trước Haiti. Philippe Coutinho đã ghi hat-trick, còn những bàn thắng còn lại được ghi bởi Gabriel Jesus, Renato Augusto, Marcelo và Neymar.[75] Chỉ cần một trận hòa để vào vòng loại trực tiếp, nhưng Brasil đã bất ngờ để thua trước Peru với tỷ số 1-0. Bàn thắng duy nhất của trận đấu được ghi bởi Raul Ruidiaz ở phút 75, nhưng bàn thắng này đã gây ra nhiều tranh cãi. Nhiều người cho rằng Ruidiaz đã dùng tay để đưa bóng vào lưới.[76] Đây là lần đầu tiên họ thua trước Peru kể từ năm 1985[77] và cũng là lần đầu tiên họ bị loại từ vòng bảng Copa América kể từ năm 1987.[78][79][80][81]
Kỷ Nguyên Tite (2016–2022)


Ngày 14 tháng 6 năm 2016, Tite được Liên đoàn bóng đá Brasil (CBF) bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia thay thế Carlos Dunga sau thất bại ở Copa America 2016.[82] Sáu ngày sau đó, Tite chính thức bắt đầu công việc mới của mình với mục tiêu vực dậy một tập thể Selecao đang rệu rã.[83]
Tite đã đóng vai trò quan trọng giúp Brasil chơi khởi sắc ở vòng loại World Cup 2018 và lấy lại vị thế ông lớn của bóng đá Nam Mỹ. Trận đấu đầu tiên của ông là chiến thắng 3-0 trước Ecuador trên sân khách vào ngày 2 tháng 9.[84] Tite tiếp tục dẫn dắt Brasil giành chiến thắng 2-1 trước Colombia, 5-0 trước Bolivia, 2-0 trước Venezuela và 3-0 trước kình địch Argentina, qua đó giúp đội bóng lên đầu bảng xếp hạng vòng loại World Cup 2018. Brasil sau đó liên tiếp đánh bại Uruguay 4-1 và Paraguay 3-0 để trở thành đội đầu tiên, bên cạnh chủ nhà Nga, giành quyền tham dự World Cup.[85][86]
Brasil bắt đầu chiến dịch World Cup 2018 với trận hòa 1-1 đáng tiếc trước Thụy Sĩ, qua đó đánh dấu trận mở màn không thắng đầu tiên của họ kể từ năm 1978.[87] Tuy nhiên, họ đã nhanh chóng lấy lại phong độ và giành chiến thắng 2-0 trước Costa Rica ở trận đấu sau đó, với các bàn thắng của Coutinho và Neymar trong thời gian bù giờ. Chiến thắng này giúp Brasil giành quyền vào vòng 16 đội với tư cách là đội nhất bảng.[88][89] Ở vòng 16 đội, Brasil tiếp tục đánh bại Mexico với tỷ số 2-0, nhờ các bàn thắng của Neymar và Firmino.[90] Tuy nhiên, hành trình của Brasil tại World Cup 2018 đã kết thúc đáng tiếc ở tứ kết, khi họ để thua Bỉ với tỷ số 1-2 trong một trận đấu mà thủ môn Thibaut Courtois của Bỉ đã chơi quá xuất sắc và khước từ nhiều cơ hội của Neymar và các đồng đội.[91][92][93]
Vào ngày 7 tháng 7 năm 2019, đội tuyển Brasil đánh bại Peru 3-1 ở chung kết Copa America 2019 để có lần thứ chín vô địch Nam Mỹ, đây cũng là chức vô địch Copa America lần đầu tiên của Brasil sau 12 năm. Trước thềm World Cup 2022, Brasil được kỳ vọng sẽ giành chức vô địch thế giới lần thứ sáu khi họ đang sở hữu một đội hình mạnh và đồng đều nhất trong nhiều năm qua.[94] Đội hình của Brazil khi đó gồm hầu hết các cầu thủ đang đạt phong độ cao tại các câu lạc bộ lớn ở châu Âu.[95] Trên hàng công, bên cạnh chủ công Neymar, hai cầu thủ giành UEFA Champions League 2021–22 cùng Real Madrid C.F. là Vinicius Junior và Rodrygo đều có mặt. Ở tuyến giữa, cùng Casemiro và Fabinho, HLV Tite còn sở hữu cầu thủ đang đạt phong độ cao tại Newcastle United là Bruno Guimaraes. Những cầu thủ mới nổi như Raphinha, Antony, Richarlison, hay Gabriel Martinelli cũng được trao cơ hội. Trước đó, Brasil đã thể hiện sức mạnh tuyệt đối ở Nam Mỹ khi bất bại và dẫn đầu vòng loại World Cup 2022 với 14 thắng và ba hòa, dù đá thiếu một trận do một cuộc đối đầu với Argentina vào tháng 9 năm 2021 bị hủy vì quy tắc phòng chống đại dịch COVID-19.
Ở vòng chung kết World Cup 2022, Brasil sớm giành quyền vượt qua vòng bảng sau khi đánh bại Serbia 2-0 và Thụy Sĩ 1-0. Đội để thua Cameroon 0-1 ở lượt cuối vòng bảng với đội hình dự bị nhưng vẫn đứng đầu bảng.[96] Sau khi đón các trụ cột trở lại thi đấu, Brasil thi đấu thăng hoa và giành chiến thắng dễ dàng 4-1 trước Hàn Quốc ở vòng 16 đội với cả bốn bàn của đội đều được ghi trong hiệp một.[97] Tuy nhiên, khi gặp Croatia ở tứ kết, Brasil đã trải qua một trận đấu vất vả khi thủ môn Dominik Livaković thi đấu quá xuất sắc và khước từ nhiều cơ hội ghi bàn của Selecao. Hai đội bất phân thắng bại sau hai hiệp chính và phải kéo nhau vào hiệp phụ. Giữa thế trận bế tắc, Neymar tỏa sáng với bàn thắng mở tỷ số ở hiệp phụ thứ nhất giúp Brasil vượt lên dẫn trước, nhưng sự sơ hở của hàng thủ đã khiến đội bị Croatia gỡ hòa khi hiệp phụ thứ hai chỉ còn 8 phút và bị kéo vào loạt sút luân lưu. Giữa áp lực tâm lý đang đè nặng, Brasil đã để thua Croatia 2-4 trên chấm phạt đền và lần thứ hai liên tiếp bị loại ở tứ kết World Cup, cũng là lần thứ tư trong năm kỳ World Cup gần nhất đội không lọt vào được bán kết.[98] Sau thất bại này, huấn luyện viên trưởng Tite tuyên bố từ chức huấn luyện viên trưởng ĐTQG.[99]
Danh hiệu
- Vô địch (9): 1919; 1922; 1949; 1989; 1997; 1999; 2004; 2007; 2019
- Á quân (12): 1921; 1925; 1937; 1945; 1946; 1953; 1957; 1959; 1983; 1991; 1995; 2021
- Hạng ba (7): 1916; 1917; 1920; 1942; 1959; 1975; 1979
Thành tích
Giải vô địch bóng đá thế giới
Năm | Kết quả | St | T | H [100] | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|---|
![]() |
Vòng 1 | 2 | 1 | 0 | 1 | 5 | 2 |
![]() |
1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 | |
![]() |
Hạng ba | 5 | 3 | 1 | 1 | 14 | 11 |
![]() |
Á quân | 6 | 4 | 1 | 1 | 22 | 6 |
![]() |
Tứ kết | 3 | 1 | 1 | 1 | 8 | 5 |
![]() |
Vô địch | 6 | 5 | 1 | 0 | 16 | 4 |
![]() |
Vô địch | 6 | 5 | 1 | 0 | 14 | 5 |
![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 6 |
![]() |
Vô địch | 6 | 6 | 0 | 0 | 19 | 7 |
![]() |
Hạng tư | 7 | 3 | 2 | 2 | 6 | 4 |
![]() |
Hạng ba | 7 | 4 | 3 | 0 | 10 | 3 |
![]() |
Vòng 2 | 5 | 4 | 0 | 1 | 15 | 6 |
![]() |
Tứ kết | 5 | 4 | 1 | 0 | 10 | 1 |
![]() |
Vòng 2 | 4 | 3 | 0 | 1 | 4 | 2 |
![]() |
Vô địch | 7 | 5 | 2 | 0 | 11 | 3 |
![]() |
Á quân | 7 | 4 | 1 | 2 | 14 | 10 |
![]() ![]() |
Vô địch | 7 | 7 | 0 | 0 | 18 | 4 |
![]() |
Tứ kết | 5 | 4 | 0 | 1 | 10 | 2 |
![]() |
5 | 3 | 1 | 1 | 9 | 4 | |
![]() |
Hạng tư | 7 | 3 | 2 | 2 | 11 | 14 |
![]() |
Tứ kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 3 |
![]() |
5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 3 | |
![]() ![]() ![]() |
Chưa xác định | ||||||
![]() ![]() ![]() | |||||||
![]() | |||||||
Tổng cộng | 22/22 5 lần: Vô địch |
114 | 76 | 19 | 19 | 237 | 108 |
Cúp Liên đoàn các châu lục
Năm | Kết quả | St | T | H [100] | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1992 | Không giành quyền tham dự | ||||||
1995 | |||||||
![]() |
Vô địch | 5 | 4 | 1 | 0 | 14 | 2 |
![]() |
Á quân | 5 | 4 | 0 | 1 | 16 | 6 |
![]() ![]() |
Hạng tư | 5 | 1 | 2 | 2 | 3 | 3 |
![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 1 | 1 | 3 | 3 |
![]() |
Vô địch | 5 | 3 | 1 | 1 | 12 | 6 |
![]() |
5 | 5 | 0 | 0 | 14 | 5 | |
![]() |
5 | 5 | 0 | 0 | 14 | 3 | |
2017 | Không giành quyền tham dự | ||||||
Tổng cộng | 7/10 4 lần: Vô địch |
33 | 23 | 5 | 5 | 78 | 27 |
Copa América | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích |
Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
![]() |
Hạng ba | 3rd | 3 | 0 | 2 | 1 | 3 | 4 |
![]() |
3rd | 3 | 1 | 0 | 2 | 7 | 8 | |
![]() |
Vô địch | 1st | 4 | 3 | 1 | 0 | 12 | 3 |
![]() |
Hạng ba | 3rd | 3 | 1 | 0 | 2 | 1 | 8 |
![]() |
Á quân | 2nd | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 3 |
![]() |
Vô địch | 1st | 5 | 2 | 3 | 0 | 7 | 2 |
![]() |
Hạng tư | 4th | 3 | 0 | 0 | 3 | 2 | 5 |
1924 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Á quân | 2nd | 4 | '2 | 1 | 1 | 11 | 9 |
1926 | Bỏ cuộc | |||||||
1927 | ||||||||
1929 | ||||||||
1935 | ||||||||
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 4 | 0 | 2 | 17 | 11 |
1939 | Bỏ cuộc | |||||||
1941 | ||||||||
![]() |
Hạng ba | 3rd | 6 | 3 | 1 | 2 | 15 | 7 |
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 5 | 0 | 1 | 19 | 5 |
![]() |
2nd | 5 | 3 | 1 | 1 | 13 | 7 | |
1947 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Vô địch | 1st | 8 | 7 | 0 | 1 | 46 | 7 |
![]() |
Á quân | 2nd | 7 | 4 | 0 | 3 | 17 | 9 |
1955 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Hạng tư | 4th | 5 | 2 | 2 | 1 | 4 | 5 |
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 4 | 0 | 2 | 23 | 9 |
![]() |
2nd | 6 | 4 | 2 | 0 | 17 | 7 | |
![]() |
Hạng ba | 3rd | 4 | 2 | 0 | 2 | 7 | 10 |
![]() |
Hạng tư | 4th | 6 | 2 | 1 | 3 | 12 | 13 |
1967 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Hạng ba | 3rd | 6 | 5 | 0 | 1 | 16 | 4 |
![]() |
3rd | 6 | 2 | 2 | 2 | 10 | 9 | |
![]() |
Á quân | 2nd | 8 | 2 | 4 | 2 | 8 | 5 |
![]() |
Vòng bảng | 5th | 2 | 1 | 0 | 1 | 5 | 4 |
![]() |
Vô địch | 1st | 7 | 5 | 2 | 0 | 11 | 1 |
![]() |
Á quân | 2nd | 7 | 4 | 1 | 2 | 12 | 8 |
![]() |
Tứ kết | 5th | 4 | 1 | 2 | 1 | 6 | 4 |
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 4 | 2 | 0 | 10 | 3 |
![]() |
Vô địch | 1st | 6 | 6 | 0 | 0 | 22 | 3 |
![]() |
1st | 6 | 6 | 0 | 0 | 17 | 2 | |
![]() |
Tứ kết | 6th | 4 | 2 | 0 | 2 | 5 | 4 |
![]() |
Vô địch | 1st | 6 | 3 | 2 | 1 | 13 | 6 |
![]() |
1st | 6 | 4 | 1 | 1 | 15 | 5 | |
![]() |
Tứ kết | 8th | 4 | 1 | 3 | 0 | 6 | 4 |
![]() |
5th | 4 | 2 | 1 | 1 | 5 | 4 | |
![]() |
Vòng bảng | 9th | 3 | 1 | 1 | 1 | 7 | 2 |
![]() |
Vô địch | 1st | 6 | 4 | 2 | 0 | 13 | 1 |
![]() |
Á quân | 2nd | 7 | 5 | 1 | 1 | 12 | 3 |
![]() |
Tứ kết | 7th | 4 | 1 | 3 | 0 | 5 | 2 |
Tổng cộng | 8 lần vô địch |
38/48 | 195 | 109 | 42 | 45 | 435 | 206 |
Thế vận hội Mùa hè
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Thế vận hội Mùa hè | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích |
Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua | |
1900 | Không tham dự | ||||||||
1904 | |||||||||
1908 | |||||||||
1912 | |||||||||
1920 | |||||||||
1924 | |||||||||
1928 | |||||||||
1936 | |||||||||
1948 | |||||||||
![]() |
Tứ kết | 6th | 3 | 2 | 0 | 1 | 9 | 6 | |
1956 | Không tham dự | ||||||||
![]() |
Vòng bảng | 6th | 3 | 2 | 0 | 1 | 10 | 6 | |
![]() |
9th | 3 | 1 | 1 | 1 | 5 | 2 | ||
![]() |
11th | 3 | 0 | 2 | 1 | 4 | 5 | ||
![]() |
12th | 3 | 0 | 1 | 2 | 4 | 6 | ||
![]() |
Hạng tư | 4th | 5 | 2 | 1 | 2 | 6 | 6 | |
1980 | Không vượt qua vòng loại | ||||||||
![]() |
Huy chương bạc | 2nd | 6 | 4 | 1 | 1 | 9 | 5 | |
![]() |
2nd | 6 | 4 | 1 | 1 | 12 | 4 | ||
Tổng cộng | 2 lần huy chương bạc |
8/19 | 32 | 15 | 7 | 10 | 59 | 40 |
Đại hội Thể thao liên Mỹ
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1995)
Đại hội Thể thao liên Mỹ | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích |
Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
1951 | Không tham dự | |||||||
1955 | ||||||||
![]() |
Huy chương bạc | 2nd | 6 | 4 | 1 | 1 | 27 | 11 |
![]() |
Huy chương vàng | 1st | 4 | 3 | 1 | 0 | 18 | 3 |
1967 | Không tham dự | |||||||
1971 | ||||||||
![]() |
Huy chương vàng | 1st | 6 | 5 | 1 | 0 | 33 | 2 |
![]() |
1st | 5 | 5 | 0 | 0 | 14 | 1 | |
![]() |
Huy chương bạc | 2nd | 3 | 2 | 0 | 1 | 3 | 1 |
![]() |
Huy chương vàng | 1st | 5 | 4 | 1 | 0 | 10 | 2 |
1991 | Không tham dự | |||||||
![]() |
Tứ kết | 5th | 4 | 2 | 2 | 0 | 5 | 2 |
Tổng cộng | 4 lần huy chương vàng |
7/12 | 33 | 25 | 6 | 2 | 110 | 22 |
Lịch thi đấu
2024
23 tháng 3 Giao hữu | Anh ![]() |
0–1 | ![]() |
London, Anh |
---|---|---|---|---|
19:00 UTC±0 | Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động Wembley Trọng tài: Artur Soares Dias (Bồ Đào Nha) |
26 tháng 3 Giao hữu | Tây Ban Nha ![]() |
3–3 | ![]() |
Madrid, Tây Ban Nha |
---|---|---|---|---|
21:30 UTC+1 | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Santiago Bernabéu Trọng tài: João Pinheiro (Bồ Đào Nha) |
8 tháng 6 Giao hữu | México ![]() |
2–3 | ![]() |
College Station, Hoa Kỳ |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC-5 | Chi tiết |
|
Sân vận động: Kyle Field Lượng khán giả: 85,249 Trọng tài: Lukasz Szpala (Hoa Kỳ) |
12 tháng 6 Giao hữu | Hoa Kỳ ![]() |
1–1 | ![]() |
Orlando, Hoa Kỳ |
---|---|---|---|---|
19:00 UTC-4 |
|
Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động Camping World Lượng khán giả: 60,016 Trọng tài: Saíd Martínez (Honduras) |
24 tháng 6 Bảng D Copa América 2024 | Brasil ![]() |
0–0 | ![]() |
Inglewood, Hoa Kỳ |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC-7 | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động SoFi Lượng khán giả: 67,158 Trọng tài: César Arturo Ramos (México) |
28 tháng 6 Bảng D Copa América 2024 | Paraguay ![]() |
1–4 | ![]() |
Paradise, Hoa Kỳ |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC-7 |
|
Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Allegiant Lượng khán giả: 46,939 Trọng tài: Piero Maza (Chile) |
2 tháng 7 Bảng D Copa América 2024 | Brasil ![]() |
1–1 | ![]() |
Santa Clara, Hoa Kỳ |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC-7 |
|
Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động Levi's Lượng khán giả: 70,971 Trọng tài: Jesús Valenzuela (Venezuela) |
6 tháng 7 Tứ kết Copa América 2024 | Uruguay ![]() |
0–0 (4–2 p) |
![]() |
Paradise, Hoa Kỳ |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC-7 | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Allegiant Lượng khán giả: 55,770 Trọng tài: Darío Herrera (Argentina) |
||
Loạt sút luân lưu | ||||
tháng 9 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Brasil ![]() |
v | ![]() |
Brasil |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC-3 |
tháng 9 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Paraguay ![]() |
v | ![]() |
Asunción, Paraguay |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC-4 | Sân vận động: Sân vận động Defensores del Chaco |
tháng 10 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Chile ![]() |
v | ![]() |
Santiago, Chile |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC-3 | Sân vận động: Sân vận động Monumental David Arellano |
tháng 10 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Brasil ![]() |
v | ![]() |
Brasil |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC-3 |
tháng 11 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Venezuela ![]() |
v | ![]() |
Venezuela |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC-4 |
tháng 11 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Brasil ![]() |
v | ![]() |
Brasil |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC-3 |
Cầu thủ
Đội hình hiện tại
Đây là đội hình đã hoàn thành Copa América 2024.
Số liệu thống kê tính đến ngày 6 tháng 7 năm 2024 sau trận gặp Uruguay.
Số | VT | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Trận | Bàn | Câu lạc bộ |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | TM | Alisson | 2 tháng 10, 1992 | 69 | 0 | ![]() |
12 | TM | Bento | 10 tháng 6, 1999 | 2 | 0 | ![]() |
23 | TM | Rafael | 23 tháng 6, 1989 | 0 | 0 | ![]() |
2 | HV | Danilo (đội trưởng) | 15 tháng 7, 1991 | 61 | 1 | ![]() |
3 | HV | Éder Militão | 18 tháng 1, 1998 | 35 | 2 | ![]() |
4 | HV | Marquinhos | 14 tháng 5, 1994 | 89 | 7 | ![]() |
6 | HV | Wendell | 20 tháng 7, 1993 | 5 | 0 | ![]() |
13 | HV | Yan Couto | 3 tháng 6, 2002 | 4 | 0 | ![]() |
14 | HV | Gabriel Magalhães | 19 tháng 12, 1997 | 7 | 1 | ![]() |
16 | HV | Guilherme Arana | 14 tháng 4, 1997 | 9 | 0 | ![]() |
17 | HV | Lucas Beraldo | 24 tháng 11, 2003 | 3 | 0 | ![]() |
25 | HV | Bremer | 18 tháng 3, 1997 | 5 | 0 | ![]() |
5 | TV | Bruno Guimarães | 16 tháng 11, 1997 | 26 | 1 | ![]() |
8 | TV | Lucas Paquetá | 27 tháng 8, 1997 | 50 | 11 | ![]() |
15 | TV | João Gomes | 12 tháng 2, 2001 | 8 | 0 | ![]() |
18 | TV | Douglas Luiz | 9 tháng 5, 1998 | 18 | 0 | ![]() |
19 | TV | Andreas Pereira | 1 tháng 1, 1996 | 8 | 1 | ![]() |
24 | TV | Éderson | 7 tháng 7, 1999 | 2 | 0 | ![]() |
7 | TĐ | Vinícius Júnior | 12 tháng 7, 2000 | 33 | 5 | ![]() |
9 | TĐ | Endrick | 21 tháng 7, 2006 | 10 | 3 | ![]() |
10 | TĐ | Rodrygo | 9 tháng 1, 2001 | 27 | 6 | ![]() |
11 | TĐ | Raphinha | 14 tháng 12, 1996 | 27 | 7 | ![]() |
20 | TĐ | Sávio | 10 tháng 4, 2004 | 7 | 1 | ![]() |
21 | TĐ | Evanilson | 6 tháng 10, 1999 | 2 | 0 | ![]() |
22 | TĐ | Gabriel Martinelli | 18 tháng 6, 2001 | 13 | 2 | ![]() |
26 | TĐ | Pepê | 24 tháng 2, 1997 | 2 | 0 | ![]() |
Triệu tập gần đây
Vt | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Số trận | Bt | Câu lạc bộ | Lần cuối triệu tập |
---|---|---|---|---|---|---|
TM | Ederson | 17 tháng 8, 1993 | 25 | 0 | ![]() |
2024 Copa América INJ |
TM | Léo Jardim | 20 tháng 3, 1995 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TM | Lucas Perri | 10 tháng 12, 1997 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Ayrton Lucas | 19 tháng 6, 1997 | 2 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Fabrício Bruno | 12 tháng 2, 1996 | 2 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Murilo | 27 tháng 3, 1997 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Renan Lodi | 8 tháng 4, 1998 | 19 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Emerson Royal | 14 tháng 1, 1999 | 10 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Carlos Augusto | 7 tháng 1, 1999 | 2 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Nino | 10 tháng 4, 1997 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Adryelson | 23 tháng 3, 1998 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Vanderson | 21 tháng 6, 2001 | 2 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Caio Henrique | 31 tháng 7, 1997 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Roger Ibañez | 23 tháng 11, 1998 | 3 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | André | 16 tháng 7, 2001 | 5 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Pablo Maia | 10 tháng 1, 2002 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Casemiro | 23 tháng 2, 1992 | 75 | 7 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Raphael Veiga | 19 tháng 6, 1995 | 6 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Joelinton | 14 tháng 8, 1996 | 5 | 1 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Gerson | 20 tháng 5, 1997 | 5 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Richarlison | 10 tháng 5, 1997 | 48 | 20 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Galeno | 21 tháng 10, 1997 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Gabriel Jesus | 3 tháng 4, 1997 | 64 | 19 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | João Pedro | 26 tháng 9, 2001 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Paulinho | 15 tháng 7, 2000 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Neymar | 5 tháng 2, 1992 | 128 | 79 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Matheus Cunha | 27 tháng 5, 1999 | 11 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | David Neres | 3 tháng 3, 1997 | 8 | 1 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Antony | 24 tháng 2, 2000 | 16 | 2 | ![]() |
v. ![]() |
|
Cầu thủ xuất sắc
Dưới đây là danh sách các cầu thủ xuất sắc từng khoác áo đội tuyển Brasil.
Huấn luyện viên
Một số huấn luyện viên trong lịch sử.
Kỷ lục
Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia

- Tính đến ngày 21 tháng 11 năm 2023
- Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
# | Cầu thủ | Số trận | Bàn thắng | Thời gian thi đấu |
---|---|---|---|---|
1 | Cafu | 142 | 5 | 1990–2006 |
2 | Neymar | 128 | 79 | 2010– |
3 | Dani Alves | 126 | 8 | 2006–2022 |
3 | Roberto Carlos | 125 | 11 | 1992–2006 |
4 | Thiago Silva | 113 | 7 | 2008– |
6 | Lúcio | 105 | 4 | 2000–2011 |
7 | Cláudio Taffarel | 101 | 0 | 1988–1998 |
8 | Robinho | 100 | 28 | 2003–2015 |
9 | Djalma Santos | 98 | 3 | 1952–1968 |
Ronaldo | 98 | 62 | 1994–2011 |
Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất

- Tính đến ngày 21 tháng 11 năm 2023[102]
- Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
# | Cầu thủ | Bàn thắng | Số trận | Hiệu suất | Thời gian thi đấu |
---|---|---|---|---|---|
1 | Neymar | 79 | 128 | 0.62 | 2010– |
2 | Pelé | 77 | 91 | 0.85 | 1957–1971 |
3 | Ronaldo | 62 | 98 | 0.63 | 1994–2011 |
4 | Romário | 55 | 70 | 0.79 | 1987–2005 |
5 | Zico | 48 | 71 | 0.67 | 1976–1986 |
6 | Bebeto | 39 | 75 | 0.52 | 1985–1998 |
7 | Rivaldo | 35 | 74 | 0.46 | 1993–2003 |
8 | Jairzinho | 33 | 81 | 0.40 | 1964–1982 |
Ronaldinho | 33 | 97 | 0.34 | 1999–2013 | |
10 | Ademir | 32 | 39 | 0.82 | 1945–1953 |
Tostão | 32 | 54 | 0.59 | 1966–1972 |
Tham khảo
- Ruy Castro, Andrew Downie (translator) (2005). Garrincha - The triumph and tragedy of Brazil's forgotten footballing hero. Yellow Jersey Press, London. ISBN 0-224-06433-9.
{{Chú thích sách}}
:|author=
có tên chung (trợ giúp)
Chú thích
- ^ "Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới". FIFA. ngày 4 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2024.
- ^ Đây là lần đầu tiên Brasil giữ vị trí số 1. Cụ thể những thời điểm Brazil giữ vị trí số 1 như sau: 9.1993, 4–5.1994, 7.1994, 9–12.1994, 2.1995, 4.1995–2.1996, 4–5.1996, 7–12.1996, 2.1997, 4.1997–5.1998, 7.1998–4.2001, 7.2002–5.2006, 7.2006–1.2007, 7–8.2007, 7–10.2009, 4–5.2010, 4-6.2017, 31.3.2023-5.4.2023
- ^ Elo rankings change compared to one year ago. "World Football Elo Ratings". eloratings.net. ngày 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
- ^ "Argentina versus Brazil". FIFA.com. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.[liên kết hỏng]
- ^ Napoleão, Antônio Carlos; Assaf, Roberto (2006). Seleção Brasileira 1914–2006. São Paulo: Mauad X. tr. 72. ISBN 85-7478-186-X.
- ^ "Brazil matches, ratings and points exchanged". Eloratings.net. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
- ^ "World Cup History - The Facts and Stats", William Hill, ngày 28 tháng 5 năm 2006. URL accessed on ngày 15 tháng 6 năm 2006.
- ^ "Soccer World Cup All-Time Standings". Thesoccerworldcups.com. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
- ^ All-time table of the FIFA World Cup
- ^ a b "Rio 2016: Neymar PK wins Brazil's first Olympic soccer gold | NBC Olympics". www.nbcolympics.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ "How many times have Brazil won the World Cup? Selecao history and record at FIFA tournament". www.sportingnews.com (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ Munday, Billy (ngày 12 tháng 11 năm 2021). "The Confederations Cup: an odd tournament now consigned to history". These Football Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ "Brazil won the U20 World Cup five times: who were the famous heroes". Sambafoot EN. ngày 21 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ Jimenez, Juan Salas. "Brazil Wins U17 FIFA World Cup". Eagle Eye. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ "World Cup History - The Facts and Stats", William Hill, May 28, 2006. URL accessed on 15 June 2006.
- ^ "World Football Elo Ratings". eloratings.net. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2021.
- ^ "Team of the Year Award 2010". Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2010.
- ^ "Beckenbauer says Brazil 1970 was the best national team of all time". Beckenbauer diz que Brasil de 1970 foi melhor seleção de todos os tempos (Portuguese). Gazeta do Povo. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ Pitt-Brooke, Jack (ngày 3 tháng 7 năm 2012). "The greatest team of all time: Brazil 1970 v Spain 2012". The Independent. London. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ "10 Greatest National Teams in World Football History". Bleacher Report. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2018.
- ^ Lea, Greg. "The Best Ever International Teams: Part Two". betsson.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2018.
- ^ "The 30 greatest international teams of all time". The Football Pantheon. ngày 16 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Soccer great Zico: Brazil '58 best team ever". Zico. CNN. ngày 5 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ "Phenomenal goals, silky skills and tight blue shorts – Why Brazil 1982 was the best World Cup team ever". Mirror.co.uk. ngày 10 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
- ^ "World Cup: The 10 best teams of all times". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2018.
- ^ "Euro 2016: Which is the greatest team in history of international football?". BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2018.
- ^ "Spain win again to extend unbeaten streak". CNN. ngày 20 tháng 6 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
- ^ víctor pérez. "Brasil-Italia, el clásico del fútbol mundial que consagró el viejo Sarriá". ABC.es. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
- ^ Molinaro, John (ngày 20 tháng 6 năm 2009). "World Derby: Brazil vs Italy". CBC Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2018.
- ^ "Silêncio no Maracanã - Revista de História". Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.
- ^ Jogos Eternos – Brasil 1×2 Uruguai 1950 | Imortais do Futebol
- ^ http://news.bbc.co.uk/sport3/worldcup2002/hi/history/newsid_1749000/1749324.stm
- ^ "Final of the 2004 CONMEBOL Copa America: Brazil, Argentina and a comeback for history". copaamerica.com. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ "Bring on the World Cup, Germany Says – DW – 06/30/2005". dw.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ Vickery, Tim (ngày 18 tháng 12 năm 2017). "Kaka's spectacular run with Milan and Brazil overshadowed by his successors". ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2018.
- ^ "Dunga completa dois anos na seleção garantindo ser um desafio ganhar o ouro". Globo Esporte (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 24 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.
- ^ "Brazil 3-0 Argentina: The heart-stopping final of the 2007 CONMEBOL Copa América". copaamerica.com. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2023.
- ^ Dawkes, Phil (ngày 28 tháng 6 năm 2009). "USA 2–3 Brazil". BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2009.
- ^ "FIFA Confederations Cup South Africa 2009 | Awards". FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association (FIFA). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ Bevan, Chris (ngày 2 tháng 7 năm 2010). "Netherlands 2–1 Brazil: The Netherlands produced a stunning second-half comeback to reach the semi-finals as Brazil's World Cup imploded in a dramatic game in Port Elizabeth". BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ "Brazil name Dunga's replacement as they rebuild for the next World Cup". The Guardian. London. Press Association. ngày 24 tháng 7 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2010.
- ^ Wilson, Jonathan (ngày 18 tháng 7 năm 2011). "Argentina and Brazil lead the fall of the Copa América giants". The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2023.
- ^ "Mano Menezes sacked as Brazil coach". Goal.com. ngày 23 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2012.
- ^ "Felipão é o novo técnico da Seleção, e Andrés deixa cargo na CBF" (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Globoesporte.com. ngày 28 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
- ^ "Netherlands go fifth in Fifa ranking". Goal.com. ngày 6 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2013.
- ^ "Brazil-Spain: a showdown 27 years in the making". Marca. ngày 28 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ "Fred and Neymar claim Confeds for Brazil". FIFA.com. ngày 1 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ "Brazil defeats Spain to win Confederations Cup". CBC. ngày 30 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ "Neymar breaks through for top award". FIFA.com. ngày 1 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ "Brazil 3–1 Croatia". BBC Sport. ngày 12 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Cameroon 1–4 Brazil". BBC. ngày 23 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Brazil 0–0 Mexico". FIFA.com. ngày 17 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ Ornstein, David (ngày 28 tháng 6 năm 2014). "Brazil 1–1 Chile". BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Neymar: Injured Brazil forward ruled out of World Cup". BBC Sport. ngày 4 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2014.
- ^ "World Cup 2014: Brazil fail to have Thiago Silva booking rescinded". BBC Sport. ngày 7 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ "The greatest half-hour in World Cup history?". Eurosport. ngày 9 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Brazil 1–7 Germany: World Cup 2014 semi-final – as it happened". The Guardian. ngày 9 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Maracanazo foi trágico, 'Minerazo', a maior vergonha do Brasil". ESPN. ngày 8 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2014.
- ^ Kilpeläinen, Juuso (ngày 18 tháng 3 năm 2018). "Neymar and the magical influence of an enigmatic amulet". Football Paradise. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2020.
For the Brazilians, the disappointment was too much to cope with. Canarinho subsequently dropped to fourth place as Holland cruised to a relatively comfortable 3–0 victory in the third place play-off at Estádio Nacional.
- ^ "Brazil 0–3 Netherlands". BBC. ngày 12 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ "2014 FIFA World Cup Brazil – Statistics – Teams – Top goals – FIFA.com" Lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2018 tại Wayback Machine. FIFA.com. Retrieved 13 June 2014.
- ^ "Netherlands ensure miserable end for hosts". ESPN.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Luiz Felipe Scolari resigns after Brazil's World Cup 2014 humiliation". The Guardian. ngày 14 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2021.
- ^ "Japan 0–4 Brazil". BBC Sport. ngày 14 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Brazil 1–0 Ecuador". BBC Sport. ngày 10 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Turkey 0–4 Brazil". BBC Sport. ngày 12 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ "Dunga sends Brazil back to the future". Goal.com. ngày 22 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
- ^ "Brazil 1–0 Colombia". BBC Sport. ngày 6 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Argentina 0–2 Brazil". BBC Sport. ngày 11 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Brazil 2–1 Peru: Douglas Costa wins it late for Selecao". Goal.com. ngày 15 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
- ^ "Brazil 0–1 Colombia: Murillo shocks struggling Selecao". Goal.com. ngày 18 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
- ^ "VIDEO HIGHLIGHTS: Brazil 2–1 Venezuela: Thiago Silva and Firmino seal top spot". Goal.com. ngày 21 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
- ^ "Brazil 1–1 Paraguay (3–4 on pens): Selecao dumped out of Copa America". Goal.com. ngày 28 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
- ^ "Brasil fica fora da Copa das Confederações após 20 anos" (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Terra. ngày 27 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
- ^ "Liverpool's Philippe Coutinho scores hat-trick for Brazil". BBC Sport. ngày 8 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2016.
- ^ Wiener, David (ngày 13 tháng 6 năm 2016). "Brazil v Peru: Raul Ruidiaz scores controversial goal that eliminates Dunga's side from Copa America". Fox Sports Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
- ^ "Dunga says 'everyone saw' Ruidiaz's handball on Peru winner vs. Brazil". ESPN FC. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
- ^ Sport, Telegraph (ngày 13 tháng 6 năm 2016). "Brazil knocked out of Copa America by Peru thanks to 'handball' goal". The Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
- ^ Tommy, Tran. "Bảng Xếp Hạng Bóng Đá". Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.[liên kết hỏng]
- ^ "Brazil dumped out of Copa America by lowly Peru for earliest exit since 1987". Independent.ie. ngày 13 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
- ^ "Brazil exits Copa America after blatant handball goal". Herald Sun. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
- ^ Edwards, Daniel (ngày 14 tháng 6 năm 2016). "Dunga sacked as Brazil coach". Goal.com. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2016.
- ^ "Brazil confirm appointment of Tite as new coach to replace Dunga". The Guardian. Reuters. ngày 20 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2016.
- ^ PA Sport (ngày 2 tháng 9 năm 2016). "Ecuador 0–3 Brazil: Gabriel Jesus scores twice on full international debut". Sky Sports. Sky UK. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2016.
- ^ "Brazil top FIFA rankings for first time in seven years". Reuters. Zurich. ngày 6 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2017.
- ^ "World Cup qualifying: Brazil beat Paraguay to seal place in Russia". BBC Sport. BBC. ngày 29 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2017.
- ^ Peterson, Joel (ngày 17 tháng 6 năm 2018). "For Brazil, a Disappointing Start to World Cup". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2018.
- ^ "Brazil 2–0 Costa Rica". FIFA. ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2018.
- ^ "Brazil 2–0 Serbia". FIFA.com. ngày 3 tháng 7 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Brazil beat Mexico to reach last 8". BBC. ngày 2 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
- ^ Johnston, Neil (ngày 6 tháng 7 năm 2018). "World Cup 2018: Belgium produce masterclass to knock out Brazil with 2–1 win". BBC Sport. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2018.
- ^ Rogers, Martin (ngày 6 tháng 7 năm 2018). "Brazil is no longer the class of world soccer". USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2018.
- ^ Wiggins, Brandon (ngày 6 tháng 7 năm 2018). "Brazil, the overwhelming favorite to win the World Cup, has been knocked out, and now the tournament is wide open". Business Insider. Axel Springer. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Pele muốn Brazil lần thứ sáu vô địch World Cup". VnExpress. ngày 13 tháng 11 năm 2022.
- ^ "Brazil hiện tại mạnh hơn World Cup 2018". VnExpress. ngày 9 tháng 11 năm 2022.
- ^ "World Cup 2022 Group G: Match schedule, fixtures, times and dates for Brazil, Serbia, Switzerland and Cameroon in Qatar". www.sportingnews.com (bằng tiếng Anh). ngày 29 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2022.
- ^ Liew, Jonathan (ngày 5 tháng 12 năm 2022). "Brazil dismantle South Korea to dance into World Cup quarter-finals". The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2023.
- ^ Church, Ben (ngày 9 tháng 12 năm 2022). "Tournament favorite Brazil out of World Cup after losing to Croatia on penalties". CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2023.
- ^ Liew, Jonathan (ngày 9 tháng 12 năm 2022). "Tite to step down amid criticism after Brazil's defeat to Croatia". The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2022.
- ^ a b Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu
- ^ "Atacante Antony é desconvocado da Seleção" [Forward Antony is recalled from the national team]. cbf.com.br (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazilian Football Confederation. ngày 4 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2023.
- ^ "Brazil – Record International Players". RSSSF. ngày 7 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2009.
Liên kết ngoài

- Trang chủ Liên đoàn bóng đá Brasil Lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2006 tại Wayback Machine
- Đội tuyển Brasil năm 1906- (tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha) Lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2005 tại Wayback Machine
- Đội tuyển Brasil năm 1914- (Chỉ tính các trận đấu hạng "A") Lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2004 tại Wayback Machine
- [1]